Địa Lư Biển Đông
Home ] Giải Ảo! HăyTỉnh Giấc Mơ Ma ] AnhHùng NguyễnThànhSắc ] Bộ H́nh ChiếnTrường HQ-4 ] AnhHùng BùiQuốcDanh ] Hải-Chiến theo BùiThanh ] Các ChiếnHạm VN&TC ThamChiến ] ChiếnThuật ĐầuChữ T ] ChuyệnMột ConTàu ] DanhSách CốThủ HoàngSa ] Danh-Sách Tử-Sĩ Hoàng-Sa ] Diễn-Tiến Trận Hải-Chiến ] Giới Thiệu ] Hải-Chiến theo Trung-Cộng ] HànhQuân TrầnHưngĐạo47 ] HìnhẢnh HQ4 HảiChiến HoàngSa ] Hồi Kư Của NgườiVề Từ HoaLục ] HQ16-HQ5 Bắn Nhau ] HQ5-Ră Ngũ ] Lố bịch kiểu Tàu phù ] Lệnh TamBấtĐả-HứaThếHữu ] Hải-Chiến theo LữCôngBảy ] CáchNhìn LịchSử XâmLược ] NgườiLínhGiàHQ4 NgôThếLong ] Người AnhHùng HoàngSa ] NguyễnThượngLong-HảiChiến HoàngSa ] Đại-Tá Ngạc Ở Đâu ] AnhHùng BH NguyễnVănVượng ] Phạm Ngọc Đa AnhHùng Tử-Sĩ ] Pḥng-Tai của HQ-4 ] QuanBinhTC HoàngSa1974 ] TàiLiệuHQ4-TổngCụcCTCT ] TâySa HảiChiến ] Thư Người Giám-Lộ ] ThuỷThủĐoàn HQ-4 ] Tiểu-Sử Anh-Hùng Tử-Sĩ ] T́m Hiểu Gerald Kosh ] ToànTập ] Tổng-kết Hải-Chiến ] Trận HoàngSa Hồ Hải ] TrầnVănĐảm-AnhHùng&Nhà VôĐịch ] TrươngVănLiêm-HQ5 ] TruyệnNựcCười MấyAnh SửaQuân-Sử ] TrùmMền HôXungPhong ] Tựa ] TưởngNiệm Anh-Hùng Nguyễn Văn Đồng ] VănTế 74 TửSĩ HảiChiến HoàngSa ] VũĐ́nhQuang-AnhHùngHảiPháo ] Anh-Hùng Vương-Thương ] Nhớ lại HCHS & SuyNgẫm ] HoaKỳ TuầnTra Biển Đông ] CâyThuốc HoàngTrườngSa ] TàuCộng KhóThắng Biển Đông ] TrungCộng GiởTṛ ĂnCướp Dầu ] Tham-Luận Biển Đông ] Sơ-Đồ Cho Ngư-Dân ] CSVN KhôngBảoVệ BiểnĐảo ] MấtBiển MấtNước ] Chinese Landmen ] CôngỨơcLHQ-UNCLOS1982 ] Luật Biển VN ] TàiLiệu PhápLư ] BảnĐồ ThuyếtTŕnh 2012 ] BảnĐồChiếnLươc ThămḌDầuKhí ] Nh́n BảnĐồ-Xem Vùng ĐQKT ] HảiĐồ Dâng Giặc ] ÂmMưu SửaLưỡiḄ&LuậtBiển ] ÂmMưu SửaLuậtBiển&Nhuốt HoàngSa ] Một KếSách Philippines ] TiếnTŕnh TranhĐấu Hải-Phận ] Tàu TrungCộng Cắt Cáp Tàu ThămḌ VN ] Biển Đông 74,000 năm trước ] ToanTính của TàuCộng ] Vùng Biển Sâu Cho Tương-Lai ] Hải-phận Cho Quốc-Gia Lào ] Dự-Án Song-Tử ] Bài HộiLuận-LS NguyễnThành ] Hội NghiênCứu Biển ĐNÁ ] Kiện HQ Trung-Cộng ] Bản-Đồ Bắc TrườngSa ] BảnĐồ MalaysiaViệtNam ] HướngVề ĐấtNước 30-4 ] RVN-CDWR-MainBody.pdf ] Hải-Đồ 1 Triệu km2 ] CôngƯớc LuậtBiển1982 Tiếng Việt ] BảnĐồ DiSản VNCH ] Nước Việt H́nh Chữ S ] ThaoMocHoangSaTruongSa.pdf ] Chương1-6 ] Chương7-11 ] [ Chương12-15 ] Chương16 Kết luận ] TiểuSử TácGiả ]

 

12 – TÀI-NGUYÊN.

 

Tài-nguyên Biển Đông gồm có phân bón trên các đảo, cá tôm thu-hoạch ngoài biển và dầu khí nằm sâu dưới ḷng biển:

 

12.1 - PHOSPHATE.

Theo những bản phúc-tŕnh về tài-nguyên th́ khối dự-trữ phosphate ở quần-đảo Hoàng-Sa có thể tới hơn 4 triệu tấn, nghĩa là đủ cho nhu-cầu phân bón của Việt-Nam Cộng-ḥa trong ṿng 25 năm (nhu-cầu những năm 1970.) Số lượng do Kỹ-sư Trần-Hữu-Châu phỏng-định vào mùa thu năm 1973 là 3,595,000 m3 cho riêng 6 đảo thuộc nhóm Lưỡi Liềm. Trọng-lượng mỗi m3 phosphate là 1.5 tấn. Nếu chỉ khai-thác một nửa thôi, số lượng phosphate dùng được cũng tới 2,700,000 tấn.

Theo tài-liệu của Nha Khoáng-Chất (Bộ Kinh-Tế VNCH) th́ số lượng dự-trữ phosphate (trên các đảo chính của quần-đảo Hoàng-Sa) như sau: *Hoàng-Sa, có từ 560,000 đến 1,000,000 tấn.

*Hữu-Nhật có lối 1,400,000 tấn.

*Quang-Ảnh có từ 700,000 đến 1,200,000 tấn.

*Duy-Mộng có từ 600,000 đến 1,000,00 tấn.

(trích bài của Giáo-sư Sơn-Hồng-Đức, Đặc-San Sử Địa 29, 1977, trang 204.)

Ở Trường-Sa, số lượng phosphate chưa được tính toán đầy đủ, nhưng ước-lượng cũng hàng triệu tấn. Công-việc khai-thác nguồn lợi này ở Trường-Sa đă nhiều lần dở dang. Trước thời 1975, người ta c̣n thấy trên các đảo ở Trường-Sa nhiều đống phân chim gom lại chưa di-chuyển đi hết.

 

12.2 – NGƯ-NGHIỆP.

Hàng năm, vùng Biển Đông thu-hoạch được khoảng 5 hay 6 triệu tấn hải-sản, chiếm vào khoảng 1/14 tổng-số sản-lượng của thế-giới (70 hay 80 triệu tấn.) Khả-năng thu-hoạch c̣n có thể cao hơn nhiều, ít nhất là 3 triệu tấn nữa.

 

H́nh 85 - Mức-độ khai-thác ngư-nghiệp tại Biển Đông, cao nhất tại vịnh Bắc-Việt, vịnh Thái-Lai và dọc duyên hải.

 

Loại cá đang được khai-thác có kế-hoạch quy-mô nhất là cá thu, danh-loại Thunnus Thynnus. Thịt cá này ăn thật ngon, bán rất được giá. Cá thu Yellowfin Tuna sống gần như khắp nơi ở Biển Đông, suốt dọc từ phía bắc Hoàng-Sa đến phía nam Trường-Sa, di-chuyển theo mùa tới tận Mindanao và Borneo.

Chỉ riêng trong khu-vực phía đông của Trường-Sa, ước-lượng thu-hoạch hàng năm tới 50 triệu Mỹ-kim. Sau Yellowfin Tuna, các loại Skipjack Tuna, Bigeye Tuna, Mackerels cũng nhiều.

Ngoài các tàu đánh cá Phi-luật-Tân đang hoạt-động sôi nổi nhất trong kỹ-nghệ đánh cá thu, số tàu Trung-Hoa cũng đă tăng-gia nhiều. Việt-Nam mới bắt đầu khai-thác.

 

H́nh 86 - Bản-đồ chỉ-đẫn đường di-chuyển của các loại cá thu theo mùa qua những vùng biển do nhiều quốc-gia kiểm-soát.

 

 

Theo giáo-sư Vũ-Tự-Lập th́ vùng biển Hoàng-Sa và Trường-Sa là đối-tượng tranh-chấp về ngư-trường. Những trữ-lượng quan-trọng về hải-sản đang bị các Tàu đánh cá Nhật-Bản và Nam-Hàn khai-thác (Atlas du Việt-Nam, Vũ Tự Lập & Christian Taillard, Reclus et La Documentation Francaise, 1994, trang 36.)

 

H́nh 87 - Loại lưới bắt cá ăn nổi.

 

H́nh 88 - Loại lưới bắt cá ăn ch́m.

 

Ngoài cá thu, c̣n nhiều loại cá hay hải-sản khác có thể mang lại những nguồn lợi lớn như tôm, cua, mực, bào ngư, vi cá, rong biển ...

Trong thời-gian trước 1975, Nha Ngư-Nghiệp thuộc bộ Canh-Nông của Việt-Nam Cộng-Ḥa đă lập một bảng danh-sách các hải-sản chính tại Biển Đông như sau:

-Cá ăn nổi: Cá Cơm, Cá Thu ống, Cá Bạc má, Cá Nhám, Cá Rựa, Cá Sọc mướp, Cá trích, Cá ngừ, Cá chuồn, Cá Nục, Cá Ṣng.

-Cá ăn ch́m: Cá chim, Cá Chét, Cá Gộc, Cá Mối, Cá Thiều, Cá Đổng, Cá Bàn xa, Cá Đỏ giạ, Cá Hố, Cá Đuối.

 

H́nh 89 - Các loại cá Biển Đông quan-trọng cho ngư-nghiệp. (Theo tài-liệu của Nha Ngư-Nghiệp VNCH, 1970.)

 

Biển Đông khá kín gần như Địa-trung-hải, chỉ thông ra ngoài đại-dương qua các ngơ hẹp như eo biển Malacca và Karimata ở phía Nam; các eo Balabac và Mindanao ở phía Đông, eo biển Đài-Loan và Bashi giữa Phi/ Đài-loan phía Đông Bắc. Ngày nay, sự tranh-chấp ngư-trường đang xảy ra. Tuy chưa có chiến-trận giữa các lực-lượng hải-quân nhưng đă có máu đổ của thường-dân trong vịnh Thái-Lan và nhiều ngư-phủ thuộc các quốc-tịch khác nhau bị bắt giữ và tù tội.

Một khi hải-phận kinh-tế 200 hải-lư được tất cả các quốc-gia duyên-hải quyết-định thi-hành triệt-để, mà ngày đó không c̣n xa, sự tranh-chấp về chủ-quyền đánh cá sẽ gia-tăng.

T́nh-trạng chủ-quyền trên Biển Đông c̣n rất mập mờ. — ngoài khơi, tàu thuyền đánh cá các nước hiện chen kẽ nhau, không biết là ḿnh đang đánh cá trên hải-phận nước nào.

Theo luật-gia Mark J. Valencia, Việt-Nam phải đối đầu nhiều nhất với Thái-Lan và hai nước Trung-Hoa trong những tranh-chấp về hải-phận đánh cá.

Ngày nay nhờ Luật Biển UNCLOS được thi-hành, các nước quanh vùng Biển Đông sẽ có cơ-hội ngồi lại giải-quyết những tranh-chấp về ngư-nghiệp trong vùng EEZ.

Theo điều-luật số 62 (UNCLOS, Article 62), Việt-Nam sẽ phải xác-định tổng-số sản-lượng hải-sản dự-trù trong khu-vục kinh-tế của ḿnh và ước-lượng khả-năng thu-hoạch của ngư-dân. Hiện nay Việt-Nam chưa phát-triển đủ mạnh về kỹ-thuật đánh cá nên c̣n lại một số lượng hải-sản thặng-dư đáng kể. Số hải-sản này nếu không sử-dụng cũng tự-nhiên bị tiêu-tán, nên không thể để uổng-phí mà phải nhường lại cho các quốc-gia khác trong trường-hợp được yêu-cầu.

Những nước nội-địa như Ai-Lao cũng có thể được chia sẻ tài-nguyên của biển-cả. Chính-phủ nước này cần khuyến-khích dân-chúng theo ngành hải-ngư-nghiệp. Quốc-gia duyên-hải thuận-lợi nhất cho họ trong việc chia sẻ số hải-sản thặng-dư là Việt-Nam. Ngoài ra, dân nội-địa sẽ có thể được quản-trị việc khai-thác ở những vùng biển chung, nằm bên ngoài ranh-giới hải-phận của những quốc-gia duyên-hải.

H́nh 90 - Vùng biển "quốc-tế" nhỏ bé nằm ngoài những ṿng tṛn 200hl tính từ Hoàng-Sa, Pratas, Philippines và Trường-Sa.

 

Việt-Nam đă có thỏa-ước về đánh-cá trong hải-phận với Nga-Sô, Úc-đại-lợi, Đại-Hàn, Thái-Lan. Hải-sản trong vịnh Thái-Lan đă bị khai-thác quá đáng gần như kiệt-quệ, nên ngư-phủ Thái-Lan rất thèm khát nguồn-lợi biển Việt-Nam.

Trong trường-hợp tranh-chấp Hoàng-Sa Trường-Sa được giải-quyết dứt khoát, nước nào có chủ-quyền dù là một hay toàn thể quần-đảo đó cũng có quyền đ̣i-hỏi "chủ-quyền 200 hải-lư kinh-tế" này tính từ đảo của họ. Các viện đại-học Hawaii và Berkeley đă phác-họa ra là "vùng biển quốc-tế" thâu lại rất nhỏ. Dải biển diện-tích không đáng kể này nằm ở phía đông của Quần-đảo Hoàng-Sa. Nếu như một nước nào đó lại lấy lư-do kéo dài thêm hải-phận (tối-đa là 350 hải-lư) th́ chẳng c̣n sót lại ǵ!

 

12.3 – HẢI-SẢN PHỤ.

Trong nhiều ngàn năm qua, người dân duyên-hải Việt-Nam đă nhờ những hải-sản Biển Đông mà sinh-tồn. Ngoài những hải-sản chính được khai-thác nhiều như đă kể ở trên, nhiều gia-đ́nh Việt-Nam c̣n sống vào sự khai-thác thương-mại các hải-sản phụ của Biển Đông. Xin kể một số hải-sản phụ như : Vi cá, Yến sào...

 

12.3.1 -ỐC BIỂN.

Vỏ ốc với nhiều h́nh dáng và mầu sắc đặc-biệt thường được mọi người ưa thích, dùng để trưng bày, chận sách. Một thời, vỏ ốc vỏ ṣ đă được con người sử-dụng như vật trao đổi giống như chúng ta đang dùng tiền đồng tiền giấy ngày nay. Vỏ ốc lớn dùng làm tù-và là một nhạc-cụ rất thường thấy ở đồng quê và trong quân-ngũ thời xưa.

Biển Đông cung-cấp những loại ốc cho thịt rất ngon và những loại ốc cho vỏ có giá-trị về tiền-bạc.

Các vỏ ốc Xà-cừ mầu sắc lóng lánh khi cắt ra thành miếng, dùng để cẩn lên các tủ thờ, bàn ghế, câu đối, tranh, liễn... Miếng xà-cừ mầu trắng như bạc nhưng nhờ phản-chiếu ánh-sáng thành nhiều mầu sắc rất đẹp.

Ốc Bào ngư (Abalone) hay cửu-khổng v́ trên vỏ có 9 cái lỗ bài-tiết. Thịt ốc bào ngư không những nổi tiếng thơm ngon mà c̣n là một vị thuốc trị các bệnh về mắt như quáng gà, thông-manh, mắt mờ rất hay.

 

H́nh 91 - ốc bào-ngư và vài loại ṣ ốc khác.

 

12.3.2 – ĐỈA BIỂN.

Đỉa biển hay Đồn-đột là một loại nhuyễn-thể không xương. Đỉa biển phát-triển mạnh nơi các vùng biển nhiệt-đới như Biển Đông. Giống như cá mực phun mực đen khi bị tấn-công, điả biển phun ra một loại chất độc mầu trắng. Người Tàu khai-thác loại hải-sản này rất quy-mô, họ gọi là Hải-sâm. Tại các tửu-lầu, Hải-sâm là món ăn quư nên bán rất được giá. Người Việt cũng rất thích đồn đột, đồng-bào ta làm gỏi đồn-đột, hầm đồn đột với gị heo, nấu đồn đột trong những món lẩu thập-cẩm...

 

H́nh 92 - Đồn-đột và một vài loài nhuyễn-thể khác.

 

12.3.3 – RUỘNG MUỐI.

Trung-b́nh một 1ít nước biển chứa tới 35gram muối. Người ta có thể cho nước biển bay hơi tại ruộng muối. Khi nước bay hết, một lớp muối kết-tinh đọng lại dưới ruộng. Nhiều làng ven biển Việt-Nam sinh-nhai bằng nghề này.

Trong một phạm-vi nhỏ hẹp, quân-nhân trú-đóng Trường-Sa có thể khai-thác nghề làm muối này.

 

12.4 – TRỮ-LƯỢNG DẦU KHÍ BIỂN ĐÔNG.

Một số học-giả cho rằng báo-cáo đầu-tiên về sự hiện-hữu dầu khí ở Biển Đông là kết-quả của các đoàn nghiên-cứu thăm-ḍ của Liên-hiệp-quốc trong những năm cuối thập-niên 1960. Thời-gian trước đó, nhiều giáo-sư địa-chất thuộc viện Đại-học Sài-G̣n đă quả-quyết là theo kiến-thức chuyên-môn của họ, Việt-Nam không có dầu lửa. Cho đến đầu thập-niên 1970, một số học-giả người Việt vẫn không tin rằng dầu hỏa có nhiều như những báo-cáo thăm ḍ cho biết. Họ nghĩ rằng dầu hỏa nếu có th́ chỉ như những hạt sương buổi sáng đọng trên khắp ngọn cỏ, lá cây ngoài cánh đồng; chuyện "không-tưởng" của họ kể ra là kỹ-nghệ khai-thác làm sao thu hút được tất cả các dọt dầu rải rác đâu đó như vậy mà mang ra bán thương-mại!

Gần đây niềm tin-tưởng lại khác hẳn. Câu chuyện "Biển Đông có dầu" không những được coi là điều hiển-nhiên mà c̣n có những người tin-tưởng rằng trữ-lượng dầu khí Biển Đông lớn không thua ǵ trữ-lượng toàn thể vùng Trung-Đông.

Dầu lửa là một chất hữu cơ. Nước ta lại là vùng mà thực-vật và sinh-vật phát-triển rất phong-phú. Nhiều cây cối và sinh-vật chỉ có ở nước ta mà không sinh-tồn được nơi khác. Giáo-sư Phạm-Hoàng-Hộ cho biết "thựcvậtchúng Việtnam có lẽ gồm vào khoảng 12,000 loài, không kể rong, rêu, nấm. Đó là một trong những thựcvậtchúng phongphú nhất thếgiới. Với một diệntích to hơn nước ta tới ba mươi lần, Canada chỉ có vào 4,500 loài, kể cả loài dunhập".

Chúng ta lại biết rằng trong những khoảng thời-gian khi Biển Đông khô-cạn, rừng cây nhiệt-đới trong vùng c̣n lớn rộng hơn ngày nay rất nhiều. Nếu thực-vật nhiều tức chất hữu-cơ kết-tầng trong đất đá phải phong-phú, người ta có thể suy-luận rằng số lượng dầu lửa và khí đốt năm dưới ḷng đất và ḷng biển không thể nào ít oi được.

Sau nhiều khảo-sát, ngày nay người ta đă vẽ được rơ ràng bản-đồ những khu-vực thủy-tra-thạch kết từng. Các công-ty dầu lửa cũng khoan thử nhiều nơi và ghi-nhận những túi dầu khí tại duyên-hải Hoa-Nam, trong vịnh Bắc-Việt, ngoài khơi Nam-phần, duyên-hải Mă-Lai- Brunei- Palawan, vùng Bắc Hoàng-Sa, băi Cỏ Rong ở Trường-Sa.

Vùng biển bao-la sâu trên 4,000m nằm giữa trung-tâm Biển Đông cũng hứa hẹn chứa đựng những kho dầu khí khổng-lồ. V́ kỹ-thuật khai-thác những vùng biển sâu c̣n quá tốn-kém, người ta chú-tâm vào những vùng nông-cạn. Hai vùng nằm trên thềm lục-địa Việt-Nam làm Trung-Cộng thèm khát nhất nằm trong vịnh Bắc-phần và khu-vực băi Tứ-Chính ở ngoài khơi Nam-phần.

 

 

H́nh 93- Những vùng kết-tầng thủy-tra-thạch và những vùng biết có dầu khí hay đang được khai-thác. Chỉ v́ sự hiện-hữu của dầu lửa mà Trung-Cộng quyết chia lại Vịnh Bắc-Việt, chiếm băi Tứ-Chính cùng Hoàng-Sa và Trường-Sa.

 

Sau đây là vài con số ước-lượng:

Vùng Biển Đông rộng tới 1,460,000 dậm vuông chia ra hai phần gần bằng nhau:

-720,000 dậm vuông cho biển và

-740,000 dậm vuông thuộc thềm lục-địa .

Trên thềm lục-địa, tại những khu-vực mà các lớp thủy-tra-thạch kết tầng dầy tới 11.000 ft, thường thường là có chứa dầu hỏa hay khí đốt. Với kỹ-thuật hiện-đại, công việc khai-thác tương-đối dễ dàng nơi những chỗ nông cạn này.

Theo như lư-thuyết của L. G. Weaks th́ cách ước-lượng như sau:

-vào khoảng 1.75% thềm lục-địa (12,950 dậm vuông) mỗi dậm vuông chứa 896,000 thùng dầu lửa: 896,000 X 12,950 = 11,603,200,000 thùng

-vào khoảng 15% thềm lục-địa (111,000 dậm vuông) mỗi dặm vuông chứa 320,000 thùng dầu lửa: 320,000 X 111,000 = 35,520,000,000 thùng

Tổng-số trữ-lượng dầu hỏa của thềm lục-địa Biển Đông theo cách tính-toán này sẽ là 47,123 triệu thùng.

Dù phỏng-định một cách bi-quan nhất, thềm lục-địa Việt-Nam chiếm không dưới 20% số lượng này.

Ngoài thềm lục-địa, vùng sâu hơn nằm giữa Biển Đông là nơi tích-tụ những lớp thủy-tra-thạch rất dầy. Những hăng dầu cho biết trữ-lượng dầu khí ở dưới các vùng ḷng chảo "basin" c̣n lớn hơn thềm-lục-địa nữa. Hiện nay kỹ-nghệ khai-thác dầu dưới ḷng biển sâu c̣n chưa được hoàn-bị.

Các đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa tương-đối nông cạn nên không nằm lọt vào trong những ḷng chảo đó, tuy nhiên khi tính toán đến ranh-giới kinh-tế 200 hải-lư người ta phải tính từ đảo, nên quốc-gia nào có chủ-quyền hai quần-đảo sẽ sở-hữu luôn cả khối tài-sản khổng-lồ chưa khai-thác này.

Nếu tổng-kết các ước-lượng này, người ta có một con số quá sức lớn lao mà trước đây ba chục năm không ai ngờ tới!

Giữa quần-đảo Hoàng-Sa và đảo Hải-Nam, gần khu-vực mà Trung cộng đă chiếm của ta, họ đă t́m thấy một mỏ khí đốt trữ-lượng 90 tỷ mét khối, hiện đang khai-thác (lịch Văn-Hóa Việt-Nam Tổng-Hợp, 1988.)

Ngay giữa vùng quần-đảo Hoàng-Sa, Trung-Cộng cũng khởi-sự thăm ḍ sau khi xâm-lăng. Trên nhiều bản-đồ về t́nh-trạng dầu lửa, người ta thấy Trung-Cộng cho in h́nh một dàn khoan ở đó. Tuy vậy sự khai thác dầu khí có lẽ chưa thực-sự tiến-hành.

Riêng trong khu-vực Trường-Sa, hai khu-vực đă được biết chắc chắn là có dầu khí:

-550 triệu thùng vùng phía Tây băi Tứ-chính trên thềm lục-địa Việt-Nam

-băi Cỏ Rong do Phi-luật-Tân khai thác

 

12.5 – DẦU KHÍ TRONG HẢI-PHẦN DO VIỆT-NAM KIỂM-SÓAT.

Không kể những khu-vực bị Trung-Cộng chiếm-đóng cũng như các vùng biển ngoài khơi đang tranh-chấp, tài-nguyên về dầu khí trong ḷng biển Việt-Nam đă được ước-tính qua những số-lượng như sau:

-Theo tiến-sĩ Charles Johnson thuộc viện Est-West Center, trữ-lượng dầu hỏa Việt-Nam ước-lượng vào khoảng từ 1.5 đếm 3.0 tỷ thùng. Để so sánh, ta lấy trường-hợp các nước đang sản-xuất dầu lửa trong vùng như Úc-đại-Lợi và Mă-lai-Á. Hai quốc-gia này có trữ-lượng lần lượt là 1.7 và 3.0 tỷ thùng. Về khí đốt, trữ-lượng của Việt-Nam có thể nhiều tới 10,000 tỷ cubic feet. Ba vùng giếng dầu khí đă được thăm ḍ đầy đủ và đang được khai-thác có trữ-lượng như sau:

*Bạch-Hổ 175- 300 triệu thùng,

*Đại-Hùng 300- 600 triệu thùng,

*Rồng 100- 150 triệu thùng.

(Investing in VietNam: Oil and Gas Exploration, Michael J. Scown, East Asian Executive Reports April 1992: 23.)

 

 

H́nh 94 - Các lô phân-chia để khai-thác dầu-hỏa ngoài khơi Nam-phần. Lưu-ư khu-vực tranh-chấp Việt-Hoa tại vùng Băi Tứ-Chính (Vạn-An) và vị-trí các giếng dầu: Rồng, Dừa, Bạch-Hổ, Đại-Hùng.

 

Những tin-tức lạc-quan vào cuối năm 1994 cho hay sản-lượng dầu khí của Việt-Nam đă vượt qua mặt Trung-Cộng và phỏng-địnhViệt-Nam có số trữ-lượng dầu khí khổng-lồ, vào hàng thứ tư trên thế-giới. (The United States and Vietnam: Overcoming the Past and Investing in the Future, Thomas R. Stauch, báo The International Lawyer, Winter 1994: 1025.)

 

12.6 – NHỮNG TÀI-NGUYÊN BIỂN-ĐÔNG TRONG TƯƠNG LAI.

Theo đà phát-triển khoa-học kỹ-thuật, nhiều tài-nguyên quư-giá sẽ dần dần được khai thác từ ḷng biển. Con người sẽ đào thêm dầu khí ở những vùng biển sâu hơn, lấy được nhiều loại quặng mỏ cần-thiết cho kỹ-nghệ.

Người Hoà-Lan với kỹ-thuật đê-điều ngăn-chận nước biển, từ các thế-kỷ trước đă chiếm thêm được nhiều đất đai sinh sống. Người Nhật ngày nay khởi-sự canh-tác quy-mô một vài loại thảo-mộc sống trong nước mặn như rong biển, nhiều loại ṣ hến và đặc-biệt phát-đạt trong ngành sản-xuất ngọc trai nhân-tạo.

Nhiều thí-nghiệm cho thấy trong tương-lai, loài người sẽ có thể sinh-sống trong ḷng biển. Những khu định-cư ngoài không-gian xem ra xa vời hơn là những thành-phố nằm dưới mặt nước. Thế-giới biển-cả rồi ra sẽ trở nên sinh-động đối với loài người không thua ǵ thế-giới trên đất liền.

Người Việt đă phải mất nhiều thế-kỷ mới vượt hết giải núi Trường-Sơn để sát-nhập nửa phần miền Nam vào với lănh-thổ. Nhưng rồi đây, theo với đà phát-triển chung của nhân-loại, có lẽ dân ta sẽ không quá tốn-kém th́-giờ để thâu-nhận Biển Đông làm cho căn nhà Việt-Nam rộng răi hơn, giàu có hơn.

Nhiều loại năng-lượng thiên-nhiên của biển cả đang được nghiên-cứu để con người sử-dụng. Không bao lâu nữa, những dân duyên-hải như người Việt sẽ có nhiều năng-lượng rẻ tiền lấy ra từ sóng, gió, thủy-triều, từ sự chênh-lệch nhiệt-độ của nước biển ở trên mặt và dưới đáy biển, sự sai-biệt độ mặn giữa nước ở sông và nước ngoài khơi v.v...

 

H́nh 95 - Một số rong biển quen thuộc nhất của ngành canh-tác biển.

 

Khác với việc trồng cấy trên mặt đất, người ta có một "hải-gian" bao la để canh-tác "nông-phẩm" biển theo cả ba chiều. Những nhà viết chuyện khoa-học giả-tưởng c̣n nghĩ rằng trong khoảng vài thế-kỷ tới, nhân-loại sẽ bắt đầu cư-trú thường-trực trong ḷng biển cả. "Người biển", nhờ tiến-bộ khoa-học, sống thảnh-thơi và mọi sinh-hoạt cũng b́nh-thường như chúng ta đang sống ngày nay trên cạn.

Lănh-hải sẽ càng ngày càng có thêm giá-trị.

 

 

13 - CÁC ĐẢO THUỘC QUẦN-ĐẢO HOÀNG-SA.

 

Đoạn này khảo-sát các đảo Hoàng-Sa một cách chi-tiết hơn.

 

13.1 – TÊN QUẦN-ĐẢO: BĂI CÁT VÀNG.

Chúng ta thường quen miệng mà gọi quần-đảo Hoàng-Sa, nhưng thực ra dẫy đảo này từ xưa đă mang tên Việt-Nam là Băi Cát Vàng hay Cồn Vàng. Tên này xác-định rơ ràng sự sở-hữu đă lâu đời v́ người Việt biết rơ đặc-tính quần-đảo của ḿnh. Chung quanh các đảo, rơ nhất ở Quang-Ḥa, băi cát thường mầu vàng. Vào những ngày biển êm, người ta có thể trông suốt đến đáy các nền ḷng chảo san-hô và thấy cát vàng ở đó.

Người Trung-Hoa gọi quần-đảo bằng nhiều tên thay đổi một cách bất-nhất. Chỉ mới gần đây, họ gọi là Hsisha hay Xisha Qundao (Tây-Sa.)

Trên hải-đồ quốc-tế, Băi Cát Vàng được ghi là Paracel Islands hay Paracels.

 

H́nh 96 - H́nh-ảnh quần-đảo Hoàng-Sa trên nền đáy Biển Đông. (Geological Topographic Mapping Party of Fujian Province, 1980's.)

 

Ông Thái-văn-Kiểm dẫn hai thuyết về "Paracel" là tên người ngoại-quốc hay thường gọi như sau:

-Theo giáo-sư Pierre Yves Manguin, Parcel là một tiếng Bồ-Đào-Nha. Tiếng này nghĩa là đá ngầm (récif) hay cao-tảng (haut-font.)

-Theo giáo-sư A. Brébion, Paracel là tên một thương-thuyền Hoà-Lan. Tàu này thuộc công-ty Đông-Ấn bị đắm tại quần-đảo Cát Vàng vào thế-kỷ XVI. (Hoàng-Sa Trường-Sa, Nguyễn-q.-Thắng, Sài G̣n 1988.)

V́ vô số ḥn đảo, ḥn đá, cồn đụn, băi cạn lúc nổi lúc ch́m theo với mực nước thủy-triền lên xuống nên số lượng đảo tùy theo cách đếm mà kể là nhiều hay ít. Giáo-sư Sơn-Hồng-Đức cho số lượng là 120 đảo. Sách cổ Việt-Nam trong những thế-kỷ trước đây cho biết có 130 đảo. Số lượng này nếu chỉ "cồn" (trong nghiă Cồn Vàng) tức sóng "cồn" th́ không sai thực-tế.

Dân Trung-Hoa, có người cho rằng Hoàng-Sa chỉ gồm 7 đảo nên gọi là Thất-Châu, có người lại nói 9 đảo nên đặt tên biển Hoàng-Sa là Cửu-đảo-dương. Chúng tôi nghĩ rằng chúng ta khó có thể chấp-nhận cả hai con số quá sai lạc này.

 

H́nh 97 - Bản-đồ Quần-đảo Hoàng-Sa với địa-danh Việt-Nam. (Cục Đo-đạc, CHXHCN Việt-Nam, 1989.)

 

 

13.2 – CHIỀU CAO CÁC ĐẢO.

Các đảo Hoàng-Sa không cao. Hải-đồ 5497 của Sở Thủy-Đạo Hoa-Kỳ ghi nhận độ cao những đảo bằng bộ Anh mà chúng tôi xếp theo thứ-tự cao thấp như sau: Rocky Island (Đảo Ḥn Đá) 50ft, Pattle I. (Đảo Hoàng-Sa) 30ft, Robert I. (Đảo Hữu-Nhật hay Cam-Tuyền) 26ft, Money I. (Đảo Quang-Ảnh) 20ft, Pyramid Rk. (Ḥn Tháp) 17ft, Lincoln I. (Đảo Linh-Côn) 15ft, Duncan I. (Đảo Quang-Ḥa) 13ft, Triton I. (Đảo Tri-Tôn) 10ft.

Hai băi ngầm Macclesfield và Scarborough nằm về phía Đông của quần-đảo Hoàng-Sa, luôn luôn nằm dưới mặt nước.

Các đảo chính của Hoàng-Sa gồm thành hai nhóm :

-Nhóm Lưỡi Liềm phía Đông Bắc

-Nhóm An-Vĩnh phía Tây-Nam

 

13.3 – CÁC BĂI NGẦM MACCLESFIELD VÀ SCARBOROUGH.

Trước khi đề-cập đến hai nhóm Lưỡi-Liềm và An-Vĩnh, chúng tôi xin nói sơ qua về các băi ngầm phía đông Hoàng-Sa như Macclesfield Bank, Stewart Bank, Truro Shoal và Scarborough Shoal.

 

H́nh 98- Bản-đồ tổng-quát vị-trí các quần-đảo và băi ngầm vùng Bắc của Biển Đông.

 

Nhóm Macclesfield chỉ gồm các băi ngầm không có đảo nên thường bị nhiều người bỏ quên không liệt-kê trong danh-sách các đảo của Băi Cát Vàng. Khi thời-tiết thật tốt, người ta chỉ thấy mặt biển phẳng lặng nhưng khi sóng gió, những cồn nước trắng xóa nổi lên suốt một vùng rộng lớn trông rất hùng-vĩ cho du-khách thưởng-ngoạn nhưng cũng gợi mối kinh-sợ mắc cạn cho người đi biển.

Những tài-liệu cổ Việt-Nam đề-cập đến số lượng các đảo các băi (130 đảo), diện-tích (dài rộng nhiều trăm hải-lư), vị-trí (ngang Quảng-Ngăi) xác nhận các băi cạn Macclesfield này cũng thuộc quần-đảo Cát-Vàng hay Hoàng-Sa vậy !

 

 

H́nh 99 - Băi ngầm Macclesfield với các vị-trí neo tiện-lợi ngoài khơi Biển Đông.

 

Nằm về phía Đông-Nam của quần-đảo Hoàng-Sa, băi ngầm Macclesfield là khu-vực rất tiện-lợi cho việc neo tàu. Trên đường hải-hành từ Việt qua Hồng-Kông hay Phi-luật-Tân, cũng như nhiều tàu ngoại-quốc, những chiến-hạm và thương-thuyền Việt-Nam khi cần ngừng lại, thường neo để nghỉ tạm ở đây. Nhóm băi ngầm này hầu hết nằm dưới vĩ-tuyến 16 độ Bắc và vào khoảng một nửa đường hàng-hải từ Đà-Nẵng đi Phi-luật-Tân. Nhóm Macclesfield chiều dài tới hơn một trăm hải-lư, rộng khoảng 60 hải-lư, nhờ được rặng san-hô mọc ngầm dưới biển bao quanh như bức tường cản sóng nên mặt biển bên trong khá yên. Tuy ở giữa một vùng biển chung quanh sâu tới 3 - 4,000m, các băi ngầm nhóm này lại nổi cao lên. Nhiều chỗ đáy cát nông, từ 5 đến 12 fathom (9 - 22m); giây neo tàu lớn đủ dài để có thể neo tàu lại cho thủy-thủ-đoàn sửa máy hay nghỉ-ngơi.

Trung-Cộng và Đài-Loan cùng tuyên-bố chủ-quyền trên băi Macclesfield, nhưng v́ băi ngầm sâu dưới biển nên không có "căn-cứ quân-sự" nào được xây-dựng.

Về phía Đông của băi Macclesfield, gần bờ biển Phi-luật-Tân có một băi khá lớn ở dưới là đá ngầm: Scarborough Shoal. Băi này nằm dưới mặt biển chừng 92 fathoms. Bên cạnh đó, Truro Shoal sâu 10 fathoms và Stewart Bank (578 fathoms) gần đảo Luzon của Phi-luật-Tân.

 

13.4 – NHÓM TRĂNG KHUYẾT.

Trăng-Khuyết hay Lưỡi Liềm hay Nguyệt-Thiềm hay Croissant hay Crescent là tên một nhóm đảo quan-trọng nằm về phía đất liền Việt-Nam.

Theo giáo-sư Sơn-Hồng-Đức th́ từ phi-cơ nh́n xuống nhóm đảo này có h́nh như hai chiếc bánh "Croissant" (hay Crescent) đâu đầu vào nhau. Có 7 đảo chính kể ra dưới đây kèm theo tên Trung-Hoa:

-Hoàng-Sa - Shanhu Dao

-Hữu-Nhật - Guanquan Dao

-Duy-Mộng - Jinqing Dao

-Quang-Ảnh - Jinyin Dao

-Quang-Hoà - Chenhang Dao

-Bạch-Quỷ - Panshi Yu

-Tri-Tôn - Zhongjian Dao.

-Các băi ngầm

-Vô-số mỏm đá.

 

H́nh 100 - Nhóm đảo Trăng Khuyết.

 

13.4.1- ĐẢO HOÀNG-SA.

Đảo Hoàng-Sa (Pattle Island) tuy là đảo chính của quần-đảo nhưng không phải là đảo lớn nhất. Nhiều nhà quân-sự cho rằng đảo này có vị-trí quan-trọng nhất, hơn cả đảo Phú-Lâm trong việc pḥng-thủ bờ biển nước ta.

Đảo h́nh bầu dục, dài khoảng 950m, rộng khoảng 650m, diện-tích chừng .32km2, có ṿng san-hô bao quanh.

Trong thời-gian Hoàng-Sa dưới chủ-quyền của Việt-Nam Cộng-Ḥa, người ta thấy có nhà cửa căn-cứ quân-sự, đài khí-tượng, hải-đăng, miễu Bà, cầu tàu, bia chủ-quyền.

 

H́nh 101 - Không-ảnh Hoàng-Sa trong thời-gian quân-đội VNCH trú-đóng.

 

-Cơ-sở quân-sự được thiết-lập từ đầu thập-niên 1930. Sang thập-niên 1950, 1960; có lúc nhà cửa được xây cất thêm, tạm đủ cho sự trú-pḥng của một tiểu-đoàn Thủy-quân Lục-chiến. Sau này khi lực-lượng VNCH giảm xuống c̣n một trung-đội Địa-phương-quân th́ nhà cửa bớt đi.

-Khoảng năm 1938, một đài Khí-tượng bắt đầu hoạt-động. Cơ-sở xây cất của đài cũng như đồn binh là hai ngôi nhà đồ-sộ và kiên-cố. Chỉ trừ ít năm khi quần-đảo bị Nhật chiếm, đài đă quan-trắc thời-tiết và phổ-biến tin-tức khí-tượng trong nhiều thập-niên cho đến khi Trung-Cộng cưỡng-chiếm vào tháng 1/ 1974.

Số hiệu của đài này là 48 860. Trong tổ-chức khí-tượng thế-giới World Meteorological Organization, nhóm 48 chỉ vùng Đông-Nam-Á, số 860 dùng cho đài Hoàng-Sa.

-Hải-đăng nằm ở phía Bắc của đảo cũng đă trợ-giúp đắc-lực cho các nhà hàng-hải khi dẫn lộ tàu thuyền đi ngang qua vùng biển Hoàng-Sa. Đèn hiệu này thấy xa chừng 12 hải-lư, thuộc loại hải-đăng chớp tắt có chu-kỳ mà thời-khoảng sáng dài hơn thời-khoảng tắt (Hải-đồ ghi: Occ -12.) Các tài-liệu hàng-hải quốc-tế như List of Lights trong những thập-niên 40, 50, 60, 70 đều ghi-chú rơ rệt những điểm này. 

 

H́nh 102 - Trái: Bia Chủ-quyền người Pháp dựng lên năm 1938, ghi lại việc nhận chủ-quyền chính-thức của chính-quyền Việt-Nam từ 1816. 

H́nh 103- Phải: Một người lính Việt trong "Garde Indochinoise" đang tuần-pḥng trên băi biển Hoàng-Sa.

 

Đài khí-tượng và hải-đăng đă biểu-tượng hùng-hồn cho sự quản-trị lănh-thổ một cách hữu-hiệu của Việt-Nam Cộng-Ḥa. Các chứng-cớ như vậy nối-tiếp với những chứng cớ khác từ đời Lê, Nguyễn cho thấy sự liên-lục trong việc hành-sử chủ-quyền của Việt-Nam trong suốt một khoảng thời-gian dài nhiều thế-kỷ.

-Miễu Bà có Tượng Bà cao 1.50m, được xây ở góc Tây-Nam của đảo, nơi mà từ đất liền ra là gặp ngay. Miếu thờ chắc chắn đă được xây nhiều lần. Theo sách "Chính-biến", vua Minh-Mạng cho dựng một thần-từ cùng lúc với việc lập bia, trồng thêm cây cối trên các đảo Hoàng-Sa vào năm 1835. Miếu này cách toà miếu cổ 7 trượng.

-Bia chủ-quyền Việt-Nam được đặt gần nơi giữa đảo. Nhà Nguyễn đă chính-thức đặt chủ-quyền ở quần-đảo Hoàng-Sa năm 1816. Người Pháp xác-nhận lại chủ-quyền đó của Việt-Nam vào năm 1938 bằng một tấm bia ghi những hàng chữ như sau:

République Francaise

Empire d'Annam

Archipel des Paracels

1816-Ile de Pattle-1938

 

H́nh 104 – Một viên chức Việt-Nam chụp h́nh trước Nhà thờ trên đảo Hoàng-Sa.

 

-Một nhà thờ Thiên-chúa được xây-dựng vào thập-niên 1950 làm chỗ cầu-nguyện cho quân-nhân theo Thiên-chúa-giáo

Đảo có đường gọng bằng sắt dài 180m dẫn ra cầu tàu dùng cho việc vận-chuyển phân bón. Cầu tàu nằm về phía Nam của đảo. Một rạch nước khá sâu dẫn từ ngoài biển vào cầu tàu . Trong thập-niên 60, cầu tàu này dùng để cặp các xà-lan chở phosphate. Sang thập-niên 70, cầu và đường sắt đă bị hư hỏng nhiều.

Đảo đủ rộng để có thể thực-hiện một sân bay nhỏ. Ngay trước khi quần-đảo mất vào tay Trung-Cộng, Quân-đội VNCH đang chuẩn-bị thiết-lập một phi-đạo ngắn đủ khả-năng tiếp-nhận vận-tải-cơ Caribou (C7) hay các loại phi-cơ khác cần dùng phi-đạo ngắn hơn. Toán công-binh tiền-phương mới ra tới nơi th́ trận hải-chiến xảy ra và đảo bị Trung-Cộng chiếm-đóng.

Mới đây, Trung-Cộng công-bố những bức h́nh cho thấy sự thay đổi. Trên đảo Hoàng-Sa cũng như trên các đảo cận-kề tương đối lớn, chúng đă xây cất thêm nhà cửa, tạo-thành những căn-cứ dành cho cả quân-sự lẫn ngư-nghiệp.

 

 

13.4.2 – ĐẢO HỮU-NHẬT (Robert Island hay Cam-Tuyền.)

Đảo mang danh một Suất-đội Thủy-Quân triều Nguyễn, tên Phạm-hữu-Nhật. Ông người Quảng-Ngăi được vua Minh-Mạng phái ra quần-đảo Hoàng-Sa để đo đạc thủy-tŕnh và vẽ bản-đồ các đảo vào năm 1836. Đảo hơi tṛn, rộng độ .32km2, nằm về phía Nam đảo Hoàng-Sa, cách 3 hải-lư. Viền quanh đảo có những cây nhàu cao từ 2 đến 3m. Bên trong lớp cây, dầy chừng 30m, là khu ḷng chảo nằm giữa đảo không sâu. Trên lớp đất đá, ngoài ít bụi cây nhỏ th́ cỏ tranh mọc khắp nơi không cao lắm.

Ngoài b́a đảo là một ṿng san-hô, có nhiều chỗ lấn hẳn vào băi cát. Rất nhiều rong phủ kín mặt biển bao chung quanh. Vít thường lên bờ đẻ trứng la liệt trong khoảng hai mùa Xuân và Hạ.

 

13.4.3 – ĐẢO DUY-MỘNG (Drummond Island)

Cao không quá 4 m. Đảo h́nh bầu dục, diện-tích khoảng .41km2 có nhiều loại cây nhỏ. Hơi giống như đảo Hữu-Nhật, giữa đảo là một vùng đất không có cây. Chỗ đất trống này có thể sinh sống được. Lại có một lạch nước nhỏ nên ghe đi theo cửa lạch đó vào được sát bờ. Tàu lớn có thể bỏ neo cách bờ 2, 3 trăm thước.

Nhiều con vít và chim biển sống trên đảo .

Vào đầu tháng 1 năm 1974, trong những ngày Trung-Cộng khởi-sự xâm-lược nhóm Lưỡi-Liềm của quần-đảo Hoàng-Sa, chúng đă tập-trung tới 11 chiếm-hạm ở phía Đông đảo Duy-Mộng này.

 

13.4.4 – ĐẢO QUANG-ẢNH (Money Island hay Vĩnh-Lạc.)

Đảo mang tên một nhân-vật lịch-sử: Phạm-quang-Ảnh, vị Đội-trưởng Hoàng-Sa-đội thời Nguyễn. Theo lệnh vua Gia-Long, ông đem hải-đội ra Hoàng-Sa năm 1815 để thu-hồi hải-vật.

Đảo này cao khỏi mặt biển tới 6 m, có lẽ cao nhất trong nhóm đảo Nguyệt-Thiềm. Đảo h́nh bầu dục hơi tṛn, diện-tích khoảng .5km2. Có một số cây lớn mọc ở giữa đảo cao tới 5m, ở ngoài là các cây phosphorite và một loại cây khác giống cây mít nhưng không có trái.

Chung quanh đảo có nhiều đá ngầm và san-hô. Tàu lớn không thể lại gần đảo v́ dễ mắc cạn, muốn thả neo phải thận-trọng v́ dễ mất neo.

 

13.4.5 – ĐẢO QUANG-H̉A (Duncan Island.)

Đảo này lớn nhất nhóm đảo Lưỡi Liềm, diện-tích gần .5km2. Chung quanh đảo là băi cát mầu vàng. Ṿng san-hô lan ra rất xa khỏi b́a đảo. Cạnh đảo lớn c̣n có những đảo nhỏ, nối liền nhau bằng băi cát dài. Một vài bản-đồ địa-chất ghi Quang-Ḥa thành hai đảo Quang-Ḥa Đông và Quang-Ḥa Tây:

- Quang-ḥa Đông có rừng cây nhàu và cây phosphorite mọc ở phía Tây của đảo, nhiều cây cao tới 5m. Phần đảo phía Đông trơ trụi chỉ có giây leo sát mặt đất.

- Quang-Ḥa Tây là một đảo nhỏ, chỉ bằng 1/10 đảo Đông, cùng những loại cây như ở đảo Đông nhưng chỉ cao khoảng 3m.

Trận hải-chiến 19 tháng 1 năm 1974 giữa Hải-quân Việt-Nam và Trung-Cộng đă diễn ra trong ṿng 5, 10 hải-lư phía Tây và Tây-Nam đảo này.

 

H́nh 105- Khu-trục-Hạm Trần-khánh-Dư HQ-4, một đơn-vị của HQ/VNCH từng tham-chiến Hoàng-Sa. Hiện chiến-hạm này trong HQ/ CHXHCN/VN thường đảm-nhiệm huấn-luyện, chiến số HQ-3.

 

13.4.6 – ĐẢO BẠCH-QỦY (Passu Keah.)

Đảo này là một dải san-hô, chỉ thật-sự nổi hẳn lên khỏi mặt nước khi thủy-triều xuống. Địa-thế trơ trọi đá, không cho phép người ta sinh-tồn.

 

13.4.7 – ĐẢO TRI-TÔN (Triton Island.) Đảo này gần bờ biển Việt-Nam nhất so với các đảo khác của Hoàng-Sa. Đảo Tri-Tôn thấp, trơ trọi đá san-hô, không có cây cỏ nhưng nhiều hải-sản như hải-sâm, ba ba, san-hô đủ mầu sắc.

 

13.4.8 – CÁC BĂI NGẦM. Có ba băi đá ngầm:

-Băi ngầm Antelope Reef nằm phía Nam đảo Hữu-Nhật và phía Đông đảo Quang-Ảnh hoàn toàn là san-hô chưa nổi lên mặt nước.

-Băi ngầm Vuladdore nằm về phía Đông Nam của nhóm đảo Lưỡi Liềm, cách xa khoảng 20 hải-lư.

-Băi ngầm Khám-phá (Discovery.)

Băi ngầm Khám-phá này là băi ngầm lớn nhất trong cả quần đảo. Một ṿng san-hô bao quanh chiều dài tới 15 hải-lư, bề ngang chừng 5 hải-lư.

Để h́nh-dung phần nào quang-cảnh các băi ngầm nơi Biển Đông, chúng tôi tóm gọn lại phần mô-tả sau đây của ông Sơn-hồng-Đức về băi ngầm Discovery làm tiêu-biểu. Trong một chuyến viếng-thăm Hoàng-Sa vào đầu thập-niên 1970, vị giáo-sư Địa-lư này đă ghi lại như sau:

"Đứng trên đài chỉ-huy của tàu nh́n xuống mặt đầm bên trong ám tiêu san-hô là một thế-giới yên lặng, mặc dù bên ngoài sóng bổ từng cơn lên ám tiêu viền. Nước bạc đua nhau, theo một lạch nhỏ để vào bên trong. Vào những ngày biển yên, người ta có thể trông suốt đến đáy ḷng chảo cát vàng ở đáy. Nhiều loài thủy-tộc sống lâu năm nên to lớn dị-thường. Có những con cá đuối bằng hai chiếc chiếu, ốc tai tượng to bằng cái bàn nặng 700 kư ..."

Nhà địa-chất-học A. Krempt cho rằng ám-tiêu Discovery, tên Pháp là Découverte có h́nh bán-nguyệt khá đối-xứng nhau. Giữa là đầm nước có độ sâu trung-b́nh 25m với hàng san-hô đang tăng-trưởng cách đến 4 hay 5m dưới mực nước biển thấp. Krempt cho rằng có thể giải-thích được sự thành-lập các ám-tiêu san-hô. (Barrier Reefs) vùng Đông-Bắc Úc-châu theo giả-thuyết gió mùa của ông. (La Forme des Récifs Coralliens et le Régime des Vents Alternants, Krempf A., Trong Rapport du Conseil du Gouvernement sur les Fonctionnements du Service Océanographique des Pêches de l'Indochine pendant l'Année 1926-1927.)

 

 

13.5 – NHÓM ĐẢO AN-VĨNH (Amphitrite Group.)

Nhóm đảo Đông-Bắc quần-đảo Hoàng-Sa được gọi là nhóm An-Vĩnh, theo tên một xă thuộc tỉnh Quảng-Ngăi. Xă An-Vĩnh là một địa-danh từ lâu gắn liền với lịch-sử Hoàng-Sa. Đại-Nam Thực-lục Tiền-biên quyển 10 ghi chép về xă này như sau: "Ngoài biển xă An-Vĩnh, huyện B́nh-Sơn, tỉnh Quảng-Ngăi có hơn 100 cồn cát ... chiều dài kéo dài không biết tới mấy ngàn dậm, tục gọi là Vạn-lư Hoàng-Sa châu ... Hồi quốc sơ đầu triều Nguyễn đặt đội Hoàng-Sa gồm 70 người lấy dân xă An-Vĩnh sung vào, hàng năm cứ đến tháng ba cưỡi thuyền ra đảo, ba đêm th́ tới nơi ..."

Nhóm đảo c̣n được gọi là Amphitrite hay Tuyên-Đức. Amphitrite là tên của một trong những chiếc tàu Âu-châu đầu tiên vào Biển Đông, gặp nguy-khốn ở Hoàng-Sa. Chiếc tàu Pháp này đă sang buôn-bán với Trung-Hoa vào cuối thế-kỷ XVII (Journal de Voyage aux Paracels, Jean Yves Claeys, báo Indochine, Hànội, các số 44, 45, 46, năm 1941.)

Nhóm đảo An-Vĩnh bao gồm các đảo tương-đối lớn và cao nhất trong các đảo của Hoàng-Sa, và cũng là các đảo san-hô lớn nhất Biển Đông như:

-Đảo Phú-Lâm - Yongxing Dao

-Đảo Cây hay Cù-Mộc - Zhaoshu Dao

-Đảo Lincoln -Dong Dao

-Đảo Trung - Zhong Dao

-Đảo Bắc - Bei Dao

-Đảo Nam - Nan Dao

-Đảo Tây - Xisha Zhou

-Đảo Ḥn Đá - Shi Dao.

Sau đây là mô-tả một số các đảo chính:

 

13.5.1 – ĐẢO PHÚ-LÂM (Woody Island.)

Đảo Phú-Lâm nằm bên đảo Ḥn Đá (Rocky Island- cao 50ft), diện-tích lớn hơn Ḥn Đá nhưng cao-độ thấp hơn rất nhiều. Đây là đảo quan-trọng nhất của nhóm đảo An-Vĩnh.

 

 

H́nh 106 - Bản-đồ nhóm đảo An-Vĩnh. Góc trái là h́nh đảo Phú-Lâm.

 

Trước thế-chiến thứ hai khi c̣n làm chủ Đông-Dương, người Pháp cũng đă khai-phá các đảo thuộc nhóm An-Vĩnh. Giống như trên đảo Hoàng-Sa, họ thiết-lập một đài quan-trắc khí-tượng ở Đảo Cây, số hiệu được ghi trong danh-sách World Meteorological Organisation là 48 859.

Sau khi Nhật đầu hàng Đồng-minh, vào tháng 6 năm 1946 Hải-Quân Pháp gửi chiến-hạm Savorgnan de Brazza đến chiếm các đảo Hoàng-Sa. V́ trận chiến Việt-Pháp bùng nổ dữ dội, vào tháng 9/ 1946 người Pháp rút quân khỏi Hoàng-Sa. Vào ngày 26/ 6/ 1946 dù đă chậm trễ, Trung-Hoa lấy cớ đến giải-giới quân Nhật (đáng lẽ phải làm năm 1945) lén đổ quân lên Phú-Lâm rồi chiếm-đóng luôn đảo này và tiếp-tục đi chiếm một đảo nữa ở Trường-Sa.

Vào ngày 13/1/ 1947, Chính-quyền Pháp chính-thức phản-đối hành-động chiếm-cứ bất-hợp-pháp của Trung-Hoa và gửi chiến-hạm Le Tonkinois ra Hoàng-Sa. Thấy Phú-Lâm đă được Trung-Hoa pḥng-thủ kỹ-lưỡng, chiến-hạm quay về đảo Hoàng-Sa (Pattle) để đổ-bộ 10 quân-nhân Pháp cùng 17 quân-nhân Việt-Nam lên chiếm-đóng đảo này.

Khi Trung-Hoa Dân-quốc chạy ra Đài-Loan, họ cũng rút quân ở Phú-Lâm và Thái-B́nh về Đài-Loan năm 1950. Bảy năm sau khi kiểm-soát được lục-điạ Trung-Cộng mới bí mật gửi quân ra chiếm đảo Phú-Lâm vào đêm 20 rạng 21 tháng 2 năm 1956.

Hiện nay Trung-Cộng đặt Bộ chỉ-huy toàn-thể lực-lượng quân trú-pḥng quần-đảo Hoàng-Sa ở đây. Căn-cứ quân-sự này kiên-cố nhất trên Biển Đông.

Sách Ocean Yearbook 10 (Chicago 1993) cho biết có tới 4,000 binh-sĩ Hải-quân và Thủy-quân Lục-chiến trong vùng biển Hoàng-Sa. Phần lớn số lính này đóng tại Đảo Phú-Lâm, số nhỏ trên đảo Lincoln và các đảo thuộc nhóm Trăng-Khuyết.

 

H́nh 107 - Cầu tàu đảo Phú-Lâm. H́nh chụp trước tháng 8 /1945 của ông Nguyễn-văn-Tính, trưởng sở TSF Hoàng-Sa.

 

Đảo có cầu tàu lớn, phi-trường, đài kiểm-báo, kinh đào và nhiều tiện-nghi quân-sự khác. Đảo dài tới 1.7km, chiều ngang 1.2km, diện-tích 320 acres hay chừng 1.3km2. Đảo có nhiều cây cối tươi tốt nên mang tên Phú-lâm.

 

13.5.2 – ĐẢO LINH-CÔN (Lincoln Island.)

Đảo Linh-Côn nằm về phía cực Đông của nhóm đảo An-Vĩnh và cũng là đảo lớn nhất của cả quần-đảo Hoàng-Sa, diện-tích chừng 1.62km2 hay 400 acres, bề cao chừng 15 ft. Hải-đồ ghi trên đảo có nước ngọt. Ṿng san-hô bao quanh đảo kéo dài về phía Nam như một con lươn có cái đầu ở Lincoln với cái thân dài tới gần 15 hải-lư. Nhiều đảo, đá san-hô tới hàng chục cái, nhấp-nhô trên mặt nước biển.

Đảo này được Trung-Cộng biến thành một căn-cứ. Ngoài công-sự quân-sự, các cơ-sở ngư-nghiệp cũng đă được xây cất khá nhiều với cầu tàu rộng lớn, nhà kho, nhà máy chế-biến ...

H́nh 108 - Đài Radar Trung-Cộng trên quần-đảo Hoàng-Sa (Bejing Review Feb 18, 1980.)

 

13.5.3 – CÁC BĂI NGẦM CHÍNH:

-Băi ngầm Jehangire Bank

-Băi ngầm Bremen Bank

-Băi đá ngầm Bombay Reef

 

14 – CÁC ĐẢO THUỘC QUẦN-ĐẢO TRƯỜNG SA.

Quần-đảo Trường-Sa nằm về phía Nam của Biển Đông, đảo gần nhất cách quần-đảo Hoàng-Sa vào khoảng 350 hải-lư, đảo xa nhất có đến 500 hải-lư. Quần-đảo này gồm khoảng trên một trăm đảo, nếu tính cả những ḥn đá và băi cạn. Đảo Trường-Sa, (tên gọi này dùng chung cho cả quần-đảo) cách Vũng-Tàu 305 hải-lư, cách Cam-Ranh 250 hải-lư, cách Đảo Phú-Quư 210 hải-lư .

Bề dài nhất của biển Trường-Sa đo được 500 hải-lư, tính từ Băi Cỏ Rong tận cùng hướng Đông-Đông-Bắc của quần-đảo tới Băi Tứ-Chính là nơi tận cùng hướng Tây-Tây-Nam.

Các đảo Trường-Sa nằm rải rác trong một khu-vực biển khoảng từ 4 độ đến 12 độ Bắc vĩ-tuyến và từ 109 độ 30 phút đến 118 độ Đông kinh-tuyến. Vùng biển này chiếm tới khoảng 360,000 km2, tức vài chục lần lớn hơn vùng biển Hoàng-Sa hay rộng bằng lănh-thổ Việt-Nam trên lục-địa. Biển tuy rộng nhưng diện-tích các đảo, đá, băi nổi lên khỏi mặt nước lại rất ít, chỉ tổng-cộng vào khoảng 10 km2.

 

14.1 – ĐỊA DANH.

Về danh xưng, sử ta chép là Vạn-lư Trường-Sa, hay Đại Trường-Sa, tiếng quen gọi vắn tắt là Trường-Sa. Người Anh, Mỹ gọi là Spratley (hay Spratly) Islands, Spratley (hay Spratly) Archipelago và vắn tắt hơn: Spratlies. Người Pháp gọi là Archipel des Iles Spratly. Người Trung-Hoa gọi là Nam-Sa (Nansha) Quần-Đảo hay Nam-Uy (Nan Wei) Quần-Đảo. Phi-luật-Tân gọi là Kalayaan. Trong thời Thế-chiến II người Nhật gọi là Shinnan Guto.

 

H́nh 109 - Bản-đồ quần-đảo Trường-Sa với địa-danh Việt-Nam. (Cục Đo-đạc, CHXHCN Việt-Nam, 1989.)

 

14.2 – SỐ LỰONG ĐẢO.

H́nh 109 - Bản-đồ quần-đảo Trường-Sa với địa-danh Việt-Nam. (Cục Đo-đạc, CHXHCN Việt-Nam, 1989.)

 

14.2 – SỐ LỰONG ĐẢO.

Theo luật gia Michael Bennett th́ có tới hơn 500 ḥn đất, đá, băi riêng-biệt tạo thành quần-đảo Trường-Sa (more than 500 separate land masses making up the Spratlys), tuy vậy chỉ có chừng 100 địa-danh. (Stanford Journal of International Law, Spring 1992: 429.) Có người ước-lượng con số 230 đảo như Michael Hindley & James Bridge (Free China Review, August 1994: 44), hay 99 "đơn-vị" như Ting Tsz Kao (The Chinese Frontiers, Illinois 1980: 289.)

C̣n người Phi-luật-Tân lại liệt-kê một danh-sách gồm 53 ḥn đảo và cù lao trong khu-vực 64,976 dậm vuông của Trường-Sa, họ gọi là Đất Tự-Do "Freedomland".

Những ḥn đảo hay đá nào đă nổi hẳn lên khỏi mặt biển khi nước lớn cần được xác-định thật đúng v́ trên mặt pháp-lư, đảo (island), cồn (cay), đụn (dune) hay ḥn đá (rock) này là căn-bản để tính-toán nhiều yếu-tố như lănh-hải, thềm lục-địa và hải-phận kinh-tế cho quốc-gia chủ-nhân của nó.

Hiện nay đă có nhiều tài liệu bàn đến số lượng những đảo và đá này ở Trường-Sa. Chúng tôi xin tŕnh-bày một trong những tài-liệu đó của nhà xuất-bản University of California Press (Atlas for Marine Policy in Southeast Asian Sea, edited by Joseph R. Morgan và Mark J. Valencia, 1983.) Nếu theo nhóm các học-giả thông-thạo luật biển này, Trường-Sa gồm 33 "đơn-vị" chia ra bốn loại như sau:

Island gồm 9 đơn-vị:

FLat Island, Itu-Aba, Loaita Island, Namyit Island, Nanshan Island, Sin Cowe Island, Spratly Island, Thitu Island, West York Island.

Cay gồm 15 đơn-vị:

Alicia-Annie Reef, Amboyna Cay, Commodore Reef, Grierson Reef, Irving Reef, Lankiam Cay, Loaita Cay, London Reef Cay, Mariveles Reef, Northeast Cay, Pearson Reef NE, Pearson Reef SW, Southwest Cay, Sand Cay, Sandy Cay.

 

H́nh 110 - Bản-đồ ghi-nhận 33 đảo và đá nổi thường trực trên mặt biển. T́nh-h́nh chiếm-đóng Trường-Sa đầu thập-niên 1980: Phi-luật-Tân chiếm 7, Việt-Nam 5, Đài-Loan 1.C̣n lại 20 "đơn-vị"(13 đảo, 7đá) chưa bị chiếm.

 

Dune gồm 2 đơn-vị::

Gaven Reef, Landowne Reef

Rock gồm 7 đơn-vị:

Barque Canada Reef, Fiery Cross Reef, Great Discovery Reef, London East Reef, Louisa Reef, Royal Charlot Reef, Swallow Reef.

 

Trong hàng mấy trăm đảo đá băi, lớn nhỏ, nổi ch́m của Trường-Sa kể trên, chỉ có một số đảo cần nói đến v́ tầm quan-trọng của nó mà chúng tôi xin mô-tả ra dưới đây:

Theo các diễn-biến hiện nay về tranh-chấp chủ-quyền, chúng tôi tạm sắp xếp thành 3 vùng. Tính từ bờ biển Việt-Nam trở ra, 3 vùng như sau:

1-Vùng Việt-Hoa tranh-chấp gồm Đảo Trường-Sa và các băi cạn phía Tây của quần-đảo Trường-Sa.

2-Vùng Việt và năm nước tranh-chấp nằm về phía Nam lằn ranh tuyên-cáo của Mă-lai-Á.

3-Vùng Việt-Hoa-Phi tranh-chấp bao trùm hầu hết khu-vực tuyên-cáo của Phi-luật-Tân. Vùng này được chia làm 4 khu

nhỏ:

*khu Nam, quanh Đá Chữ Thập

*khu Trung gồm hai quần-đảo: Sinh-Tồn và Ba-B́nh/Nam-Yết

*khu Bắc, khu Loại-Ta Song-Tử

*khu Đông, các băi cạn sát Phi-luật-Tân.

 

14.3 – VÙNG VIỆT-HOA TRANH-CHẤP.

Gồm có:-Băi Tứ-Chính hay Vanguard Bank,

-Băi Phúc-Nguyên hay Prince Consort Bank

-Băi Quế-Đường hay Grainger Bank

-Băi Phúc Tần hay Prince of Wales Bank

-Băi Huyền-Trân hay Alexandra Bank

-Băi Vũng Mây hay Rifleman Bank

-Đá Lát hay Ladd Reef

-Đảo Trường-Sa hay Spratley Island.

Vùng này nằm về phía cực Tây của quần-đảo và gần bờ biển Việt-Nam hơn tất cả các băi và đảo khác của quần-đảo Trường-Sa. Băi Tứ-Chính nằm sát với thềm lục-địa Việt-Nam, tuy ngăn cách một cái rănh cạn nhưng không xa đường thâm-thủy 200m bao nhiêu. Độ sâu đáy biển tăng từ Tây qua Đông nhưng không đều. Quanh băi Vũng Mây, nước lại cạn và có chỗ không sâu quá 300 m.

 

14.3.1 – ĐỊA-DANH LỊCH-SỬ.

Hầu hết địa-danh vùng này đặt theo các tên lịch-sử như:

Tứ-Chính là tên một phường trước kia trên Cù-Lao Ré, thuộc Phủ Quảng-Ngăi. Theo Phủ-biên Tạp-lục của Lê-quư-Đôn, dân-cư phường Tứ-Chính trồng đậu (Tứ chính phường cư dân đậu điền.) Từ cửa biển An-Vĩnh ra đó phải đi bốn trống canh.

Cũng theo sách trên, Lê-quư-Đôn kể một địa-danh nữa hơi khác với Tứ-Chính là Tứ-Chánh. Đó là tên một thôn thuộc Phủ B́nh-Thuận (Phan-Thiết ngày nay.) Người dân thôn này đă cùng với dân làng Cảnh-Dương được tuyển-chọn nếu muốn t́nh-nguyện gia nhập đội Bắc-Hải. Họ chuyên đi thám-sát và thu-lượm sản-vật ở vùng quần-đảo Trường-Sa (Quần-đảo Trường-Sa và Hoàng-Sa của Việt-Nam, Việt-Nam tập-chí, Campbell tháng 8- 1991, trang 23.)

Phúc-Nguyên Phúc-Tần là tên hai vị chúa anh-hùng của nhà Nguyễn. Phúc-Nguyên (Phước-Nguyên, 1562-1635) hay chúa Săi là chúa thứ hai nhà Nguyễn. Ông không thần-phục chúa Trịnh, trả sắc dụ lại cho vua Lê vào năm 1630. Chúa nh́n xa, trông rộng: ông thông-hiếu với vua Cao-Mên và đưa người Việt di-dân vào Nam-phần.

Phúc-Tần (Phước-Tần, 1619-1687) hay chúa Hiền là chúa thứ tư nhà Nguyễn. Vị chúa rất giỏi thủy-chiến này đă đánh thắng được binh-thuyền Ḥa-Lan đến cướp phá năm 1644, khi đó ông mới chỉ làm chức thế-tử. Nhờ chiến-công, chúa Phước-Tần chấm dứt được cuộc phân-tranh Nam-Bắc kéo dài 45 năm (1627-1672.) Chúa cũng là người chiếm được vùng đất Nha-trang, mở nước cho đến tận Phan-Rang. Bắc quần-đảo Trường-Sa nằm ngang vĩ-tuyến với Phan-Rang.

Quế-Đường là tên hiệu của Lê-Quư-Đôn (1726-1784), một nhà bác-học về thời Lê, trước-thuật nhiều tác-phẩm về lịch-sử, địa-dư và văn-hóa nước ta. Tác-phẩm của ông có đề-cập tới địa-lư Hoàng-Sa, Trường-Sa.

Huyền-Trân là tên công-chúa con gái vua Trần-Nhân-Tôn (1279-1293.) Nhờ cuộc kết-hôn của Huyền-Trân với vua Chiêm Chế-Mân, nước ta có thêm hai châu Ô, Lư như là đồ sính-lễ. Đất này đổi tên là Thuận-châu và Hóa-châu. (Tên Huế ngày nay do chữ Hóa mà ra.) Hoàng-Sa nằm ngang cùng vĩ-độ với vùng đất này.

Ngoài các băi cạn mang tên lịch-sử, c̣n có băi Vũng-Mây với Ḥn Đá Bông-Bay là một vị-trí tương-đối cao.

Các băi vừa kể đều do đất cát san hô tạo nên. Có băi như có vẻ đang tiếp-tục nổi cao lên, tuy vậy khi nước ṛng sát cũng ít khi cao quá mặt nước.

Theo bản-đồ quốc-pḥng Mỹ (bản-đồ số G9237.S63, năm 1992), quân trú-pḥng XHCN Việt-Nam hiện đóng trên các băi Tứ-chính, Phúc-Nguyên, Quế-Đường và Băi Vũng-Mây (Rifleman Bank.) Theo tài liệu của báo-chí Mỹ mới đây, Việt-Nam đang pḥng-thủ trên những dàn kiểu nhà sàn ở Băi Tứ-Chính (Vanguard Bank), Băi Phúc-Tần (Prince of Wales Bank.) Quân Việt-Nam cũng đóng trên Đá Lát (Ladd Reef) Đá Bông-Bay (Bombay Castle, Rifleman Bank) với đồn pḥng-thủ chính trên đảo Trường-Sa.

Khu-vực biển ở về phía Tây băi Tứ-chính (Trung-Cộng gọi là Băi Vạn-An- Wan'an Bei) nằm hoàn-toàn trong thềm lục địa Việt-Nam đă được biết đích-xác là có trữ-lượng dầu lửa rất lớn. Thanh-Long là tên gọi túi dầu này, chứa tới 500 triệu thùng. Trung-Hoa lục-địa cố cản trở Việt-Nam không cho khởi-công khai-thác. Đă nhiều phen họ lên tiếng phản-đối và có lần đă gửi chiến-hạm xuống phá đám việc tiếp-tế cho một dàn khoan thăm-ḍ ở đây.

 

 

H́nh 111 - Bản-đồ tổng-quát vùng tranh chấp Crestone.

 

Năm ngoái, tổ-hợp Nhật-Mỹ MJC Petroleum Ltd. với một thành-viên là công-ty Hoa-Kỳ Mobil Oil đă được CHXHCN Việt-Nam nhượng-quyền thăm ḍ khai-thác vùng Tứ-Chính. Một công-ty dầu khác là Conoco đang thương-thuyết với Hà-Nội xin quyền khai-thác khu-vực phía Bắc MJC Petroleum. Trước đây vào năm 1992, Trung-Cộng đă cho phép hăng Crestone Oil của Hoa-Kỳ khai-thác dầu khí ngay trên vùng này. Trung-Cộng hứa cho Hải-quân bảo-vệ. Băi Tứ-chính nằm trong khu-vực Trung-Cộng cho sang-nhượng này. Sự can-thiệp quân-sự nếu có, chắc chắn gây đổ máu.

 

14.3.2 – ĐẢO TRƯỜNG-SA.

Đảo lớn duy nhất trong vùng là đảo Trường-Sa mà người Pháp gọi là đảo Băo-Tố (Ile de Tempête.)

Tên Trường-Sa này được dùng để gọi chung cho cả quần-đảo. Nằm giữa những băi và đá vùng Tây Nam Trường-Sa, đảo này lớn và là vị-trí quan-trọng nhất của khu-vực. Báo Economist (Vol. 316, July 7, 1990: 36) cho rằng đảo này rộng đủ (2500ft X 1300ft) cho việc thiết-lập một phi-đạo ngắn.

Về đại-mộc, đảo không có cây lớn, về loại thân thảo có rau sâm rất nhiều mọc khắp nơi. Sâm là một loại dược-thảo dưỡng-sinh rất tốt và hiệu-nghiệm để trị một vài tật bệnh.

Hồi đầu thập-niên 1970, quân bố-pḥng Việt-Nam Cộng-ḥa ở đây có nơi cư-trú rộng răi, tiện-nghi chỉ thua Nam-Yết. Đảo có một cầu tàu nằm về phía Tây của đảo, dùng tạm bợ cho các xuồng cao-xu đổ-bộ, hay tiểu-đĩnh của chiến-hạm ra vô tiếp-tế.

Cầu tàu nay đă được làm lớn ra. Trung-Cộng đă phản-kháng việc XHCN Việt-Nam xây-cất cầu ở Trường-Sa. Nhu-cầu phát triển quân-sự và ngư-nghiệp bắt buộc phải có bến đậu cho tàu thuyền. Một cầu tàu loại chữ I vươn từ bờ đảo ra biển dài 75 thước là một công-tŕnh rất lớn về xây cất ở Trường-Sa.

Đảo Trường-Sa cao không hơn 15 ft và trơ trụi nên cần được trồng nhiều cây cao để giữ đất. Cây cao với cánh lá xum xuê cũng giúp cho việc pḥng-thủ rất nhiều. Những cây duyên-hải Việt-Nam loại phi-lao, bàng bể rất thích-hợp, nhưng nếu vấn-đề ngụy-trang, che dấu, tăng-cường pḥng-thủ công-sự là khẩn-cấp th́ cần những cây mọc nhanh để làm sao trong ṿng ít năm, đảo trở thành xum xuê, che kín hết mọi kiến-trúc nhân-tạo bên trong.

Khu-vực biển từ đảo Trường-Sa xuống Tứ-Chính tuy chỉ có hai nước Việt và Hoa tuyên-bố chủ-quyền nhưng đang trong ṿng tranh-chấp gay gắt. V́ việc khai-thác dầu lửa, Trung-Cộng có thể tấn-công quân pḥng-thủ Việt-Nam ở đây trước khi chiếm thêm đảo trong khu trung-ương.

Một Bộ-chỉ-huy trú-pḥng ở một cấp-bộ nào đó phải đặt ở Trường-Sa để giải-quyết nhiều công-vụ, kể cả hành-chánh lẫn dân-sự. Quân trú-pḥng CHXHCN Việt-Nam hiện đóng đông nhất trên đảo Trường-Sa, một số trên các băi và ḥn gần đó.

 

H́nh 112 - Bản-đồ đảo Trường-Sa.

 

Ngoài ra, các băi Jubilee nằm về phía Tây, và các băi Coronation cùng Duvalle nằm về phía Bắc nhóm này c̣n ngập sâu nước nên không có quân trú đóng.

Việt-Nam đă nhận-thức được việc thực-hiện các đèn hải-hiệu là quan-trọng nên thành-lập một nhóm điều-hành đèn hiệu tại Trường-Sa. Ngoài việc cung-cấp phương-tiện định hướng cho các tàu bè hải-hành trong vùng phụ-cận, hải-đăng cũng nói lên chủ-quyền đất nước. Đến nay, CHXHCN Việt-Nam thiết-lập được một hệ-thống gồm 10 đèn trên các đảo và ḥn đá chính như tại đảo Trường-Sa, tại ḥn Đá Lát. Đá Lát cũng như Đá Bombay không được kể là một đảo theo pháp-lư, nhưng nếu Hải-đăng được dựng lên th́ Đá Lát lại được chấp-nhận theo Luật Biển Quốc-tế .

Trung-Cộng như thường-lệ phản-kháng liền ngay khi Việt-Nam đặt hải-đăng. Vào tháng 8/94, Phi-luật-Tân cũng lên tiếng phản-đối Việt-Nam. Họ tái xác-nhận chủ-quyền trên quần-đảo mà họ gọi là Kalayaan.

Báo-chí Hoa-Kỳ không nói rơ là Trung-Cộng có quân đồn-trú vùng này hay không, tuy nhiên tin-tức có lộn-xộn trong khi loan-báo lầm lẫn việc Trung-Cộng đóng chiếm Đá Lát (hay Ladd Reef ?) vào năm 1992.

 

14.4 – VÙNG VIỆT VÀ 5,6 NƯỚC TRANH-CHẤP.

Vùng tranh-chấp liên-hệ tới ít nhất là sáu nước: Việt, Trung-Hoa, Đài-Loan, Phi-luật-Tân, Brunei và Mă-lai-Á (nếu không kể một "tân-quốc vô-h́nh" đă mất là Luconia), gồm có:

-Băi Luconia Shoals

-Đảo An-Bang tức Amboyna Cay

-Băi Thuyền Chài tức Barque Canada Shoals

-Đá Kỳ-Vân hay Mariveles Reef

-Đá và băi Kiệu-Ngựa hay Ardasier Reefs

-Băi Thám-Hiểm hay Investigator Shoal

-Đá Công-Đo hay Commodore Reef

-Đá Hoa Lau hay Swallow Reef

-Đá Sắc-Lốt hay Royal Charlotte Reef

-Đá Louisa Reef

Vùng này ở phần cực Nam của Quần-đảo Trường-Sa, kể từ 8 độ 50 Bắc trở về Nam. Mă-Lai-Á đă tuyên-bố có chủ-quyền và vẽ ranh giới lên tới phía Bắc của Băi Thuyền-Chài và đảo Công-Đo.

Đảo An-Bang là đảo lớn nhất. Những đảo, cồn khác trong vùng thật nhỏ như Đá Kỳ-Vân, Đá Hoa Lau, Đá Sắc-Lốt, Louisa Reef. Khá nhiều băi cạn và đá ngầm chưa nổi lên mặt nước.

Vào tọa-độ, khoảng 5 độ 00 N, 112 độ 30 E có các rặng đá ngầm, băi cạn Luconia nằm sát bờ biển Mă-lai-Á. Chỗ này xa Trung-Cộng có tới gần một ngàn hải-lư, vậy mà Trung-Cộng cũng không ngừng lên tiếng lạm-nhận chủ-quyền.

Quân XHCN Việt-Nam trú đóng trên Băi Thuyền Chài và vị-trí tốt nhất là Đảo An-Bang. Đảo độc nhất này nằm ở phía Tây trong vùng biển nhiều nước tranh-chấp. Băi Thuyền Chài chỉ mới nổi lên mặt nước, dài khoảng 32 km, rộng tối-đa 6 km, tuy vậy một diện-tích dùng được cho việc chiếm đóng lại rất nhỏ hẹp.

Phía Đông-Nam của Băi Thuyền Chài, cách băi này khoảng 40 đến 60 hải-lư có quân trú-pḥng của Mă-lai-Á trên các ḥn Đá Kỳ-Vân (Mariveles Reef), Đá Kiệu-Ngựa (Ardasier Reef) và Đá Hoa-Lau (Swallow Reef.)

Phía Đông vùng này, quân Phi-luật-Tân đóng trên Đá Công-Đo (Rizal)

 

H́nh 113- Bản đồ vùng đảo An-Bang.

 

14.5 – VÙNG VIỆT-HOA-PHI TRANH CHẤP.

Vùng này rất rộng lớn, để sự mô-tả được dễ dàng, chúng ta có thể chia nó làm 4 khu: khu Nam, khu Trung, khu Bắc, khu Đông.

 

H́nh 114 - Vùng Việt - Hoa - Phi tranh-chấp.

 

14.5.1 – KHU NAM.

Khu này nằm ở phía Nam của quần-đảo Sinh-Tồn (Union Reefs), gồm các ḥn đá:

Đá Tây hay West Reef

Đá Giữa hay Central Reef

Đá Đông hay East Reef

Đá Châu-Viên hay Cuarteron Reef

Đá Núi Môn hay Maralie Reef và Bittern Reef

Đá Ḥn Síp/ Ḥn Sáp hay Pearson Reef NE&SW

Đá Tốc Tan hay Alison Reef

Đá Núi Le hay Cornwallis South Reef

Đá Tiên-Nữ hay Tennant Reef hay Pigeon Reef

Vùng này không có đảo cũng như không băi nào lớn, chỉ nổi lên một số ḥn đá nhỏ mà thôi, cây cối rất ít v́ thiếu đất.

Quân CHXHCN Việt-Nam đóng trên Đá Đông (Cồn .6m), Đá Tây (Đá .6m) Đá Giữa (sấp-sỉ mặt nước.)

Có hai cục đá nhỏ sát nhau của ḥn Đá Núi-Môn (Maralie Reef và Bittern Reef) không biết đă có người chiếm giữ hay không, bốn ḥn khác là Đá Ḥn Síp, Đá Tốc-Tần, Đá Núi Le và Đá Tiên-Nữ đều do quân Cộng-sản Việt-Nam trú-đóng.

Quân Trung-Cộng trấn-đóng trên Đá Châu-Viên (Cuarteron Reef- Huang Jiao) từ tháng 1- 1988.

14.5.2 - Khu Trung.

Khu trung-ương của Trường-Sa gồm hầu hết các đảo lớn nhất của quần-đảo và v́ vậy tập-trung đông-đảo quân trú-pḥng nhiều nhất.

Các đảo quan-trọng kể từ phía Nam lên như sau:

 

- Đá Chữ Thập hay Fiery Cross Reef Quân Trung-Cộng trấn-đóng trên Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef- Yung Shu Jiao) từ tháng 1- 1988. Đá Chữ Thập nằm về phía Đông-Bắc của đảo Trường-Sa và cách đảo này chừng 80 hải-lư. Ḥn đá Chữ Thập là chỗ cao nhất của một băi cạn dài khoảng 25 km, rộng tối-đa chừng 6 km. C̣n Đá Châu-Viên chỉ cách Đá Đông của quân XHCN Việt-Nam chừng 15 hải-lư.

Tin-tức qua báo-chí ở Hoa-Kỳ cho hay Trung-Cộng đặt Bộ chỉ-huy toàn-thể quân trú-pḥng quần-đảo Trường-Sa trên Đá Chữ-Thập. Chúng đă xây cất nhiều cơ-sở và cả một phi-đạo (?.)

 

H́nh 115 - Các nhóm đảo quan-trọng của quần-đảo Trường-Sa.

 

- Nhóm đảo Sinh-Tồn:

Gồm có:-Đá Gác Ma hay Johnson Reef South

-Đá Collins hay Johnson Reef North hay Collins Rf

-Đảo Len hay Lansdowne Reef

-Đảo Sinh Tồn hay Sin Cowe Island

-Đảo Sinh Tồn Đông hay Sin Cowe East Island

-Đá Ken Nan hay Kennant Reef hay Chiqua Reef

-Đá Ba Đầu

Các đảo chính có một ít cây nhỏ là Sinh-Tồn và Sinh-Tồn Đông, rồi đến Đảo Len. Ba đảo này và một số ḥn đá nhỏ nổi lên tạo thành một ṿng đai san-hô có tên là Union Reefs. Hồi những năm 1970, quân-nhân Việt-Nam CH đồn-trú ở đây không có tiện-nghi bằng những người ở các đảo Nam-Yết và Trường-Sa.

Vùng biển này đă diễn ra trận đánh năm 1988 mà Hải-quân CHXHCN Việt-Nam bị ch́m 2 chiến-hạm, 1 chiến-hạm bị hư-hại, chết hơn 70 người.

 

H́nh 116- Chiến-hạm này (số cũ: HQ-505 khi phục-vụ HQ/VNCH) bị bắn hư-hại khi Trung-Cộng tấn-công vào tháng 3/ 1988.

 

XHCN Việt-Nam có quân trên các đảo Sinh-Tồn, Sinh-Tồn Đông, Đảo Len và Đá Co Lin. T́nh-h́nh quân-sự ở đây thường-trực căng thẳng. Từ đầu năm 1988, quân Trung-Cộng đă đổ-bộ và đóng trên hai ḥn đá Ken Nan (Chiqua Reef hay Dongmen Jiao) và Gác Ma, nằm chen kẽ với Việt-Nam; khoảng cách nhau chỉ khoảng 3 hải-lư. Vào đầu năm 1992, Trung-Cộng lại chiếm thêm ḥn Đá Ba Đầu (cực Đông-Bắc của Union Reefs) và Ḥn Đá Lạc (có lẽ là ḥn đá gần Nam-Yết.)

Đặc-biệt quân hai bên cùng trú-đóng trên một rặng đá ngầm nhỏ có tên Johnson Reefs. Nh́n trên hải-đồ, ta có thể nói: cùng trên một “đảo” mà có hai lực-lượng thù-nghịch: Việt ở đầu Bắc (đá Co Lin) và Tàu ở đầu Nam (đá Gác Ma.)

-Nhóm Nam-Yết/ Ba-B́nh/ Đá Lớn- Nhỏ.

Gồm có:

-Đá Nhỏ hay Discovery Small Reef

-Đá Lớn hay Discovery Great Reef

-Đá Đền Cây Cỏ hay Western Reef

-Đảo Nam-Yết hay Namyit Island

-Đá Ga Ven Gaven Reef

-Đảo Thái-B́nh hay Itu-Aba Island

-Đảo Sơn-Ca hay Sand Cay

-Đá Đô-Thị hay Petley Reef.

Các ḥn đá đứng riêng rẽ: Đá Nhỏ, Đá Lớn, Đá Đèn Cây Cỏ.

Các đảo đá c̣n lại nằm trên một ṿng san-hô Tizard Bank. Khu này có đảo rộng nhất của quần-đảo là Ba-B́nh và cũng có đảo cao nhất của quần-đảo là Nam-Yết. Những lùm cây lớn nhất cũng mọc tại đây. Mật độ quân trú-pḥng ba nước thật cao trong một vùng biển nhỏ hẹp.

 

 

H́nh 117 - Nhóm đảo Tizard Bank.

 

-Đảo Nam-Yết. Nam-Yết, Namyít hay Nam-Ai, tuy nhỏ hơn Ba-B́nh ...nhưng lại là ḥn đảo cao nhất của quần-đảo. Chiều dài vào khoảng 700m, ngang 250m, cao 4.7m (15ft.) Sách China's Boundaries của Ying Cheng Kiang (Illinois, 1984) ghi đảo này cao tới 61 ft, Ocean Yearbook 10 (Chicago 1993) viết 20m kể cả cây; cả hai cao-độ này có lẽ đều là quá đáng.

Chung-quanh đảo có ṿng san-hô và nhiều băi đá ngầm. Trên đảo có những cây dừa, cây bàng, mù u, nhàu và nhiều giống cây nhỏ, cỏ gai vùng nhiệt-đới.

Công-sự pḥng-thủ được Công-binh VNCH xây cất khá kiên-cố. Trong khoảng l974-1975, Bộ Chỉ-huy toàn-thể quần-đảo đă được đặt ở đây. Trên đảo có nhà cửa, hồ nước mưa, tiện-nghi khá đầy đủ. Nước giếng không ngọt, hơi lờ lợ; không dùng nấu ăn nhưng dùng tạm được cho tắm giặt. Với những dụng-cụ lọc nước thương-mại ngày nay, người ta có thể chuyển-biến nước giếng thành nước uống được.

Quyết-định sáng suốt của Hải-Quân VNCH khi đặt Bộ-chỉ-huy pḥng-thủ Trường-Sa ở Nam-Yết dựa trên các yếu-tố binh-địa như sau:

-Trừ Ba-B́nh, đảo này đáng kể là quan-trọng hơn hết trong vùng. Nam-Yết là đảo nhiều sinh-động, lại có lợi-thế là đảo cao nhất của quần-đảo.

-Pḥng-thủ dễ dàng dựa vào thiên-nhiên, cây cối giúp bao-phủ công-sự, san-hô bao bọc gần khắp chung quanh, lại có một vùng đáy cát làm chỗ neo rất tốt về phía Bắc.

-Nằm ở khu trung-ương, liên-lạc dễ dàng với cả các toán pḥng thủ Song-Tử Tây ở phía Bắc và toán pḥng-thủ đảo Trường-Sa phía Nam.

-Vị-trí tốt nhất để canh chừng hoạt-động của Đài-Loan ở Ba-B́nh và cả Phi-luật-Tân ở khu-vực Đông và Đông-Bắc quần-đảo.

Đảo Nam-Yết có cầu tàu nằm ở phía Bắc, đối-diện với Đảo Ba-B́nh của Trung-Hoa QG. Cầu tàu này tương-đối mới.

Khi quân Cộng-Sản Việt-Nam khởi-sự chiểm-đóng quần-đảo Trường-Sa, bộ chỉ-huy chính không c̣n được đặt ở đây nữa.

-Đảo Ba-B́nh. Ba-B́nh hay Thái-B́nh hay Itu-Aba là đảo lớn nhất của quần-đảo Trường-Sa.

Đài-Loan chiếm đảo này tháng 6/ 1946, họ rút quân về Đài-Loan năm 1950. Khi anh em Cloma người Phi-luật-Tân tuyên-bố khám-phá Trường-Sa, Đài-Loan gửi quân trở lại đảo Ba-B́nh này 20 tháng 5 năm 1956.

 

H́nh 118 - Bản-đồ đảo Ba B́nh.

 

Trên hải-đồ, chiều dài đảo đo được khoảng 1.2km, chiều ngang khoảng 450m. diện-tích 0.41 km2 (chừng 100 acres.) Độ cao chừng 13 ft (4.0m), thấp hơn đảo Nam-Yết một chút. Trung-Hoa Đài-Loan xây cất nhiều cơ-sở quân-sự, có súng lớn, có đài kiểm-thám, có cầu tàu ở phía nam của đảo dành cho các tiểu-đĩnh đi tuần-tiễu. Ước-lượng quân trú-pḥng tới một tiểu-đoàn, tuy vậy nếu nói cơ sở 800-1000 lính và cư-dân (?) th́ có vẻ quá đáng. Căn-cứ này được bố-pḥng kiến-cố nhất quần-đảo trong t́nh-trạng hiện nay và có lẽ cả trong tương-lai nữa.

Niên-giám 1993 của Trung-Hoa Đài-Loan cho kích-thước đảo Ba-B́nh hơi khác: dài 1,360m, rộng 350m, cao trung b́nh 3.8m, diện-tích 489,600 m2. Bề mặt đảo có vẻ được ước-lượng sai quá lớn. Đảo không thể lớn hơn diện-tích h́nh ellipse và chắc-chắn nhỏ hơn h́nh chữ-nhật 1360m x 350 rất nhiều!

 

 

H́nh 119,120,121 - H́nh của Trung-Hoa Đài-Loan công-bố về hoạt-động của họ trên đảo (1994.)

 

Những h́nh-ảnh Đài-Loan công bố gần đây nhất cho thấy Thủy-quân Luc-chiến của họ đă cải-biến đảo khác hẳn hồi thập-niên 1960, 1970. Nh́n xa thấy đảo Ba B́nh như to cao hơn xưa. Cây cối mọc rất nhiều và tươi tốt, che-phủ các hệ-thống bố-pḥng kiên-cố. Quân trú-pḥng có cơ-sở sinh-sống thoải-mái, tập-luyện thường-xuyên, trang-bị đầy đủ với cả xe lội nước..

Đảo này lớn, thuận-tiện nhất trong việc thiết-lập một phi-trường cho những phi-cơ chiến-thuật cần phi-đạo ngắn. Cầu tàu nay đă được nới rộng rất lớn. Nhờ hàng san-hô bao quanh, mặt nước khá yên-tĩnh nên tiểu-đĩnh có nơi cặp bến khá tốt.

Pháp và Việt-Nam đă thiết- lập một đài khí-tượng ở đây. Trước Thế-chiến II, đài hoạt-động rất hữu-hiệu mặc dù gặp khó khăn t́m kiếm người t́nh-nguyện. Ông Trần-văn-Mạnh cho biết, khi đang phục-vụ tại đây đă bị lính Nhật giam giữ khi chúng chiếm đảo vào năm 1941. (White Paper on the Hoang-Sa and Truong-Sa, Republic of Vietnam, Saigon 1975, trang 78.)

Đài Ba-B́nh mang chỉ-danh là 48 919. Số hiệu này do World Meteorological Organisation cấp-phát cùng với các đài quan-trắc ở các đảo Hoàng-Sa (48 860) và Phú-Lâm (48 859)

 

14.5.3 – KHU BẮC-

Gồm có -Đảo Loại Ta hay Loaita I. (Kota)

-Đảo Lankiam Cay (Panata)

-Đá Su-Bi hay Subi Reef

-Đảo Thị-Tứ hay Thitu I. (Pagasa)

-Đảo Sandy

-Đá Men Di hay Menzies Reef

-Đảo Bến Lộc hay West York I. (Licas)

-Đá Nam hay South Reef

-Song-Tử Tây hay South West Cay

-Song-Tử Đông hay North East Cay (Parola.)

 

- Đảo Loại Ta. Đảo Loại-Ta nằm về phía cực Nam của băi ngầm Loaita Bank. Băi này dài tới 60 hải-lư chạy từ hướng Tây-Nam lên Đông-Bắc. Phía Đông đảo Loại-Ta có đảo Lankiam nhỏ bé hơn, phía Tây có Ḥn Loại-Ta Nam. Tận cùng phía Bắc của Băi Loaita Bank là Đá Men Di. Phía Đông của đá Men Di có đảo Bến Lộc rộng hơn tất cả các ḥn đảo kia, diện-tích tới gần 20 acres.

 

H́nh 122 -Bia chủ-quyền của Việt-Nam thiết-lập trên đảo Loại-ta trong thập-niên 1960 . Hiện Phi-luật-Tân đang chiếm-đóng đảo này

 

- Đảo Bến Lộc và đảo Loại-Ta cấu tạo bởi san-hô và cát. Trên đảo có một số cây và rất nhiều phân chim.

Quân pḥng-thủ Phi-luật-Tân trú-đóng trên ba đảo Loại-Ta (Loaita Island, Kota), Lankiam (Panata) và Bến Lộc (West York Island, Licas.)

- Đảo Thị-Tứ. Đảo này h́nh bầu dục, chung quanh đảo có rất nhiều rong biển và các băi đá ngầm. Trên đảo có một số cây như cây mù-u, cây bàng.

Cùng nằm trên rặng đá ngầm Thitu Reefs có đảo cát Sandy.

Quân Phi-luật-Tân pḥng-thủ trên đảo Thị-tứ (Thi Tu Island, Pagasa), đă xây phi-đạo nối dài ra biển.

Quân Trung-Hoa Đỏ chiếm-đóng Ḥn đá Su-Bi (Subi Reef, Jhubi Jiao) cách đảo Thị-Tứ chừng 14 hải-lư về hướng Tây-Bắc.

 

H́nh 123 - Không-ảnh của phi-đạo trên một đảo tại QĐ Trường-Sa.

 

-Đảo Song-tử Đông, Song-tử Tây. Song-tử Đông hay Northeast Cay và Song-tử Tây hay Southwest Cay là hai đảo thuộc rặng đá ngầm North Danger Reefs.

Hai ḥn đảo này như anh em sinh đôi nằm về phía Bắc của quần-đảo ngang vĩ-độ với Phan-Rang. Trên đảo có những cây cao trung-b́nh, nhiều phân chim có thể chế-biến thành phân bón. Ṿng quanh hai đảo này, về phía Đông và Nam chừng năm hải-lư có nhiều mỏm đá ngầm. Rong biển mọc nhiều ở đây.

Song-tử Đông (North East Cay, Parola) hơi tṛn hơn, rộng gần 20 acres, có quân trú-pḥng Phi-luật-Tân.

Song-Tử Tây h́nh lưỡi liềm, diện-tích nhỏ hơn Song-Tử Đông. Ḥn Đá Nam cách xa đảo Tây này chừng 5 hải-lư về phía Nam Tây Nam.

Quân Việt-Nam chiếm-đóng đảo Song-tử Tây và ḥn Đá Nam. Hai đảo Đông và Tây chỉ cách nhau khoảng 3 hải-lư, các quân trú-pḥng Việt và Phi nh́n thấy quốc-kỳ của nhau khá rơ ràng.

 

H́nh 124 - Khi Pháp rút khỏi Việt-Nam, Hộ-tống-hạm Tuỵ-Động, HQ-04 là chiến-hạm HQ/VNCH đầu-tiên công-tác tuần-tiễu Trường-Sa (22/8/1956.)

 

14.5.4 – KHU ĐÔNG.

Khu Đông của quần-đảo Trường-Sa là một vùng biển rộng lớn nằm gần quần-đảo Phi-luật-Tân. Khu này là vùng biển xa nhất trong Biển Đông nếu tính từ thềm lục-địa Á-châu trở ra, nó cách bờ biển Việt-Nam 500 hải-lư.

Có lẽ cả thế-giới đang chú-tâm nhiều đến các vùng biển phía Tây Trường-Sa là khu-vực đang có tranh-chấp gay gắt nhất diễn ra giữa Việt-Nam và Trung-Cộng mà quên đi vùng biển này trong một thời-gian khá dài.

Thật ra vùng biển rộng lớn này rất quan-trọng v́ những điểm sau:

-Chiếm tới một phần ba diện-tích toàn-thể biển Trường-Sa, suưt-soát với Nam-phần Việt-Nam.

- Chỉ có quân trú-pḥng của một quốc-gia duy nhất là Phi-luật-Tân.

- Diện-tích chỗ đáy biển nông cạn dưới 200m chiếm tới hai phần ba tổng-số diện-tích những vùng nông cạn tương-tự của quần-đảo. Lợi thế này đáng kể v́ hiện nay kỹ-thuật khai-thác ḷng biển c̣n rất khó khăn, tốn kém tại những nơi đáy biển quá sâu.

- Chỗ độc nhất trong cả hai quần-đảo Trường-Sa cũng như Hoàng-Sa đă được thăm-ḍ đầy đủ. Cho đến nay vị-trí túi dầu và trữ-lượng dầu cùng khí đốt đă được biết đích-xác nhất và cũng là chỗ độc nhất đang được khai thác.

- Trung-Cộng khởi-sự hành-động giả-dạng ngư-dân lặng lẽ lấn-chiếm kể từ tháng 2 năm 1995.

- Các đảo B́nh-Nguyên và Vĩnh-Viễn. Vùng này rất ít đảo, đáng kể chỉ có hai đảo là:

-Đảo B́nh-Nguyên hay Flat Island (Patag.)

-Đảo Vĩnh-Viễn hay Nanshan Island (Lawak.)

Diện-tích mỗi đảo có lẽ vào khoảng trên dưới 15 acres với cùng tính-chất địa-lư như các đảo khác của Trường-Sa. Quân Phi-luật-Tân chiếm-đóng cả hai đảo B́nh-Nguyên (Patag) và đảo Vĩnh-Viễn (Lawak.)

Đảo Vĩnh-Viễn dài chừng 580m, cao không quá 2m. Đảo B́nh-Nguyên thấp hơn, rất hẹp bề ngang (240mX90m), nền đảo đang bị soi ṃn. Trên mặt hai đảo san-hô này chỉ có lớp cát đất mỏng và phân chim. Có một ít cây nhỏ và lùm bụi cỏ vùng nhiệt-đới. Tuy đảo nhỏ như vậy, chính-phủ Phi cho biết đă thiết lập được phi-trường trên đảo Vĩnh-Viễn và thường-xuyên có hai chuyến máy bay nối liền các đảo với nội-địa Phi-luật-Tân.

-Các băi cạn. Vùng này có nhiều băi cạn không sâu quá 200m. Những băi rộng lớn như sau:

-Băi Cỏ Rong hay Reed Tablemount dài tới hơn 100 hải-lư, rộng nhất là 70 hải-lư. Tài-nguyên dầu khí vùng này đáng kể là nguồn lợi lớn lao nhất của quốc-gia Phi-luật-Tân. Các dàn khoan dầu đang hoạt-động và dự-trù cung-cấp ít nhất 10 phần trăm nhu-cầu cho cả xứ.

-Băi Cạn Nam hay Southern Reef nằm về phía Nam của Băi cỏ Rong, dài khoảng 45 hải-lư, rộng khoảng 25 hải-lư.

-Băi Cá Ngựa hay Sea Horse Shoal là băi ngầm san-hô nằm tận cùng hướng Đông của quần-đảo Trường-Sa.

-Các băi Vành Khăn Sa-Bin, Băi C̣ Mây, Băi Suối Ngà, Băi Suối Ngọc, Băi Trăng Khuyên (hay Trăng Khuyết?) nằm về phía Nam những băi được kể ở những đoạn trên. Khu-vực các băi chạy rời rạc dọc ngoài khơi của Palawan, cách đảo này từ 50 đến 100 hải-lư.

 

H́nh 125, 126 - H́nh-thể của Atolls và Tablemount theo sách American Practical Navigator của Bowditch

 

Hầu hết khu-vực bao quanh Bởi Băi Cỏ Rong, băi Trăng Khuyết (Half Moon Shoal), băi Cá Ngựa và bờ biển Palawan đều đă được chính-phủ Phi-luật-Tân cho chia lô và thăm-ḍ. Các công-ty Dầu Khí cho biết tiềm-năng dưới ḷng biển rất dồi dào.

Trong khu-vực ngang vĩ-độ với Trường-Sa, nhiều vị-trí được t́m thấy mỏ dầu khí, đang được khai-thác. Tại thềm lục-địa Việt-Nam, bốn giếng dầu lớn là Bạch-Hổ, Đại-Hùng, Dừa và Thanh-Long gợi ḷng tham vô đáy của Trung-Cộng. Chắc chắn người Tàu cũng biết rơ tiềm-năng dầu-khí vùng Cỏ Rong, nhưng chúng chưa áp-dụng biện-pháp mạnh với Phi-luật-Tân để tranh-giành. Chính-sách "tầm ăn dâu" mới được Trung-Cộng khởi-sự cho thi-hành từ cuối năm 1994, khi chúng lén chiếm đá ngầm Vành Khăn.

Phi đang cố gắng đẩy mạnh việc khai-thác tại Băi Cỏ Rong. Song song với sự hoạt-động mạnh mẽ của những dàn khoan dầu nằm sát bờ biển bắc đảo Palawan, Phi-luật-Tân hy-vọng trong tương-lai sẽ trở nên một quốc-gia tự-lực về dầu lửa không cần nhập-cảng.

 

H́nh 127 - Những khu-vực Phi-luật-Tân đă cho đấu-thầu khai-thác dầu khí.

 

-Tranh-chấp về vùng đá ngầm Vành Khăn.

Vào đầu tháng 2/1995, chính-phủ Phi-luật-Tân phát-hiện Trung-Cộng đă chiếm đóng ḥn đá ngầm Vành Khăn. Trên hải-đồ quốc-tế, ḥn đá ngầm này mang tên Mischief Reef, người Phi gọi là Panganiban, tọa-độ 9.58 N., 115.42 E. Vành Khăn là một vành san-hô nằm dưới mặt nước biển một vài thước. Ngoài Vành-Khăn, trên các băi ngầm Jackson, Half Moon (Trăng Khuyên), Sabina (Sa-Bin) cũng có dấu vết xây cất của Trung-Cộng.

Có lẽ khởi-sự từ cuối năm 1994, Trung-Cộng đă cho quân-đội giả dạng làm thường-dân đánh cá, bất-thần chiếm ḥn đá ngầm Vành Khăn. Một ghe của ngư-phủ Phi hành-nghề lẩn quẩn gần đó th́ bị bắt, Chỉ khi Trung-Cộng thả ghe này ra, Phi-luật-Tân mới biết là nhiều cơ-sở của Tàu đă được xây-dựng trên những vùng quanh ḥn đá ngầm này.

 

H́nh 128- Kiến-trúc xây-cất trên ḥn đá ngầm Vành Khăn mà Trung-Cộng đă tuyên-bố là chỗ trú-ẩn cho dân đánh cá.

 

V́ Mischief và Half Moon chỉ cách đảo Palawan chừng 135 và 70 hải-lư, lại nằm quá sâu trong hải-phận 200 hl EEZ của họ, Chính-phủ Phi-luật-Tân rất lo ngại. (Về vị-trí - xin xem h́nh 114.) Sự phản-đối lúc đầu rất mạnh mẽ, Phi cho công-bố h́nh chụp các kiến-trúc khá lớn do Trung-Cộng xây dựng trên những dàn kiểu nhà sàn. Phi cũng cho biết có 3 tàu lớn, 5 tàu nhỏ và một số ghe nhỏ đang neo hay chạy quanh quẩn gần đó.

Biến-cố này chứng tỏ Trung-Cộng vẫn tiếp-tục sử-dụng biện-pháp quân-sự, nhưng khôn khéo hơn, để chiếm trọn các đảo ngoài Biển Đông.

Lúc đầu, Trung-Cộng chối rằng không có âm mưu ǵ, sau đó lại nói cái dàn do dân đánh cá Trung-Hoa tự-động xây cất làm nơi trú-ẩn.

H́nh chụp không-ảnh cho thấy rơ trên mặt nước là một căn-cứ quân-sự với bồn chứa nhiên-liệu, có cắm cờ Trung-Cộng. Cơ-sở đủ lớn để có thể trang-bị nhà máy điện và đài Radar.

Về tàu bè Trung-Cộng hoạt-động gần đó, Phi cho biết có một chiếc thuộc loại Dashi Class (Dazhi?.) Nếu tin-tức này đúng th́ t́nh-h́nh càng thêm nghiêm-trọng. Theo tài-liệu Jane's Fighting Ships, chiến-hạm Dazhi Class giữ nhiệm-vụ của một trạm yểm-trợ tiềm-thủy-đĩnh lưu-động.

 

 

H́nh 129- Đặc-tính loại tàu Dazhi theo Jane's Fighting Ships năm 1995, trang 132.

 

Nhiều h́nh-ảnh, tin-tức, b́nh-luận chống-báng Trung-Cộng đă được đăng trên các báo-chí thế-giới. Sau mấy tuần-lễ không có một thay đổi ǵ khác xảy ra. Mặc dù đă thất-bại nhiều lần trong quá-khứ, Nam-Dương lại cố gắng mời các phe phái liên-hệ đến tham-dự một hội-nghị ḥa-b́nh Biển Đông. Thiện-chí của Nam-Dương rất đáng ca ngợi, tuy vậy nỗ-lực của nước này chắc không đi được đến đâu. Trung-Cộng vẫn tiếp-tục đi hết tiến-tŕnh vạch sẵn là chiếm từng ḥn đảo một cho đến khi nào nuốt trọn gói Trường-Sa. Phi-luật-Tân nói rằng sẽ đưa nội-vụ ra Ṭa-án Quốc-tế.

Tuy thế, lần này sự biến-chuyển về t́nh-h́nh quân-sự và ngoại-giao lại khác hẳn, đi ra ngoài dự-đoán của Trung-Cộng. Vào cuối tháng 3/ 1995, khi vừa bắt đầu thương-thuyết với Trung-Cộng một ngày tại Bắc-Kinh, Phi-luật-Tân bất-thần đưa hải-quân tới ngay vùng đá ngầm ngoài khơi Palawan. Lấy danh-nghiă bảo-vệ hải-phận, phi-cơ của Phi triệt-tiêu công-tŕnh xây cất của Trung-Cộng trên các băi ngầm Jackson, Sabina, Half Moon. 62 ngư-phủ người Tàu bị bắt. Cảnh-sát Phi-luật-Tân đă tố-cáo 62 người này xâm-nhập lănh-thổ nước họ một cách bất hợp-pháp, mang theo chất nổ hủy-hoại hải-sản và săn bắt rùa biển là loài động-vật đang được nhiều nước bảo vệ. Thủ-tục truy-tố ra ṭa đang tiến-hành. Việc thương-thuyết Phi-Tàu ngưng lại.

T́nh-h́nh Biển Đông hiện thêm căng thẳng. Vào ngày 31/ 3/ 1995, Đài-Loan lo ngại, gửi ba tuần-tiễu-hạm xuống tăng-cường vùng Pratas và có lẽ cả Trường-Sa. Biển Đông êm êm được mấy năm, nay lại nổi sóng-gió băo-bùng. Trung-Cộng không để một nước láng giềng nào sống yên ổn!

 

15 – KIẾN-THỨC VỀ BIỂN ĐÔNG VÀ CÁC CUỘC KHẢO-SÁT VÙNG H̉ANG-SA, TRƯỜNG-SA.

Biển Đông như đă nói, là khu-vực biển quan-trọng nên đă có nhiều cuộc khảo-cứu trên đủ khía cạnh. Về phương-diện khoa-học, không ai dám nhận là biết nhiều về lớp nước bao bọc gần 3/4 điạ-cầu. Những cuộc khảo-sát, nghiên-cứu về Biển Đông và các đảo của nó vẫn tiếp-tục. Các nhà khoa-học hy-vọng càng ngày người ta càng thu-lượm được thêm nhiều kiến-thức về biển cả, để ứng-dụng làm cho đời sống con người thêm tươi đẹp hơn.

Trong vô-số cuộc khảo-sát Biển-Đông đă qua, chúng tôi xin lược duyệt một số công-tŕnh như sau đây:

 

15.1 – KIẾN THỨC BIỂN ĐÔNG TỪ NHỮNG NGÀY XA XƯA.

Người Việt đă hải-hành ngang dọc Biển Đông từ những thiên-kỷ trước công-nguyên. Trống đồng Đông-Sơn cùng các sản-phẩm khác của người Việt được phân-phối đi nhiều nơi ở Đông-Nam-Á. Vùng Biển Đông trong đó có cả Hoàng-Sa và Trường-Sa không xa lạ ǵ với người Việt. Biển này ví như cái sân trước của căn nhà Việt-Nam vậy. Các đảo thân-yêu như cây cối trong vườn. Có đảo cận-kề bờ biển Việt-Nam không tới một ngày chạy buồm, như Tri-Tôn của quần-đảo Hoàng-Sa chỉ cách Cù-lao Ré có 123 hải-lư mà thôi.

Muốn giải-thích sự hiện-hữu của các chứng-tích Lạc-Việt trên đất Phi-luật-Tân, Bornéo, Nam-Dương, Mă-Lai; ngườ́ ta chỉ c̣n cách vẽ đường hải-hành từ Bắc-Việt ngang qua Hoàng-Sa và Trường-Sa để đến đó! Trên đường thương-buôn khắp Đông-Nam-Á, ghe thuyền Việt ta viễn-duyên nhiều ngàn hải-lư (Nanhai Trade, Wang Gungwu, Kuala Lumpur 1959) nên kiến-thức về những đảo cận-kề trăm dậm như Hoàng-Sa đă được cha truyền con nối.

Những chuyến hải-hành ra Thái-b́nh-Dương cũng từng được dân Bách-Việt thực-hiện hàng ngàn năm trước công-nguyên (Science and Civilisation in China, Vol.4, Cambridge 1971.) Tuy cả pho sách khổng-lồ này bàn về văn-minh Trung-Hoa, nhưng các tác-giả của nó là Joseph Needham, Wang Ling và Lu Gwei-Djen lại đoan-quyết rằng người Tàu không phát-triển hàng-hải, c̣n người Việt (Yueh) thời cổ mới chính là giống dân tiền-phong trong lănh-vực đó. Lấy những dẫn-chứng căn-bản từ sách sử Trung-Hoa, 3 học-giả gồm một Anh-cát-Lợi, hai Trung-Hoa đă truy-cứu ra rằng từ ngay thiên-kỷ thứ nhất trước Tây-Lịch, dân Bách-Việt đă từng buôn bán với Tây-bá-lợi-Á.

Truyền-thống hàng-hải như vậy vẫn tiếp-tục lưu-truyền và phát-triển sau nhiều ngàn năm. Trong thời cận-đại đôi khi v́ sự sinh-tồn, người Việt "thuyền-nhân" đă từng nhập bọn với cả hải-tặc để tấn-công bờ biển Trung-Hoa từ thời nhà Tống, nhà Thanh.

Người Việt theo nhà ngoại-giao Anh đầu thế-kỷ 19 như John Crawfurd, là những nhà hàng-hải can-đảm và giỏi giang nhất vùng Đông-Ấn (The Mandarin Road to Old Hué, Alastair Lamb, Edinburgh 1970: 263-264.) Khi đến Đà-Nẵng, Crawfurd lại khen những thuyền của ta công-tác Hoàng-Sa đóng theo kiểu Mă-lai rất chắc chắn.

 

H́nh 130 - Ghe bầu, một loại thuyền buồm Trung-Việt kiến-trúc tốt, vận-tốc cao, có khi chạy tới 12 gút.

 

Nhà quân-sự Pháp như Đô-dốc d'Estaing th́ khâm-phục sự pḥng-thủ của ta khi đưa ra nhận-xét: Việc tuần-tiễu đường biển kể cả Hoàng-Sa khá nghiêm-ngặt. Chúa Vơ-Vương có tới 400 súng đại-bác chế theo kiểu Bồ-đào-Nha, một số được lấy về từ những con tàu đắm ở Hoàng-Sa. ("Une tentative ignorée d'établissement francais en Indochine au 18e siècle", Louis Malleret, Bulletin de la Société des études Indochinoises, No 1, Hanoi 1942.)

Cũng theo những sách nghiên-cứu của các học-giả Joseph Needham và của G.R.G. Worcester, sử Trung-Hoa ghi-chép rất ít về các hoạt-động hàng-hải của nước họ. Nếu có nói đến hàng-hải thời cổ chăng nữa, sách sử Tàu cũng chỉ ghi được những mảnh vụn vặt mà họ thấy được từ những sắc dân khác-biệt với họ như Việt, như Ngô v.v...

Thật kỳ lạ, lần đầu tiên chính-sử Trung-Hoa kể tên một nhà hàng-hải th́ người đó là chẳng phải là một người Tàu chính-hiệu. Wang Gungwu viết trong cuốn Nanhai Trade, Kuala Lumpur 1959, trang 64-65 như sau: "Năm 607, vua Tùy nghe nói có một nước ở ngoài khơi Phúc-Châu, ra lệnh mở cuộc viễn-chinh... Trong chiến-dịch xâm-chiếm Đài-Loan (năm 610), có hai thành-tích liên-quan đến một vị Hạm-trưởng tên Hồ-Man là điều đáng lưu-tâm. Đây là lần đầu tiên chính-sử (Official Annals) đề-cập đến một nhà hàng-hải, nhưng tên tuổi lại không có vẻ ǵ là Tàu hết. Cái tên "họ Hồ người (Nam-) Man" cho thấy ông ta là người Việt (Tàu -hóa) hay có thể là người Việt miền Nam ... Đoàn viễn-chinh gồm nhiều sắc dân miền Nam, kể cả người nói tiếng Mon-Khmer."

Xin ghi thêm: Đài-Loan là đảo nằm về phía cực bắc của Biển Đông không xa lạ ǵ với những dân hàng-hải như giống Việt. Những chuyến viễn-hành của họ được nhắc nhở tới trong sử Trung-Hoa từ trước thời Xuân-Thu Chiến-quốc. Khoa khảo-cổ cũng xác-nhận dấu-tích của giống dân này ở phía Nam tới Nam-Dương, phía Bắc tới Tây-bá-lợi-Á. (Science and Civilisation in China, Vol 4, Cambridge 1971.)

Đối với kiến-thức của người Trung-Hoa về biển cả nói chung, người viết xin không bàn nhiều, chỉ xin thay lời một số nhà nghiên-cứu mà chép lại như sau :

- James Fairgrieve viết trong sách "Geography and World Power" (London, 1921, p.242) rằng người Tàu là giống dân lục-địa với các thói quen và cách suy-nghĩ của người sống trên đất. Nguyên văn như sau: "China has never been a sea-power because nothing has ever induced her people to be otherwise than landmen, and landmen dependent on agriculture with the same habit and ways of thinking drilled into them through forty centuries."

- E. B. Elridge viết trong sách "The Background of Eastern Sea Power" (Melbourne, 1948, p.47) rằng tâm-trí người Tàu hướng về nội-địa và kiến-thức của họ về biển cả thật là ít ỏi. Nguyên-văn như sau: "Essentially a land people, the Chinese cannot be considered as having possessed sea-power... The attention of the Chinese through the centuries have been turned inward towards Central Asia rather than outward, and their knowledge of the seas which washed their coast was extremely small."

 

15.2 – THỜI LÊ-NGUYỄN.

Sách sử Việt-Nam ghi-chép về Hoàng-Sa từ thế-kỷ XVII với chi-tiết địa-lư rơ ràng trong sách "Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư" (1630-1653) của Đỗ-Bá.

Sau sách này, ta có "Phủ-biên Tạp-lục" một tác-phẩm của Lê-quư-Đôn mà trong đó ông tường-thuật những công-tác thi-hành chủ-quyền Việt-Nam trên Hoàng-Sa và Trường-Sa. Các đội Hoàng-Sa trách-nhiệm những đảo Cát Vàng và đội Bắc-Hải trách-nhiệm Trường-Sa, Phú-Quốc; tuân-hành theo lệnh Chúa Nguyễn.

Khởi-sự vào cuối thế-kỷ XVII, sau những chuyến đi biển hàng năm thường dài tới 6,7 tháng, các đội Hoàng-Sa đă báo-cáo lại mọi diễn-biến trên hải-tŕnh làm kinh-nghiệm cho những chuyến công-tác sau này. Từ đời chúa Nguyễn-phúc-Nguyên (1613-1615) hay có thể trước đó nữa, các đội Hoàng-Sa đă được thành-lập để thu-lượm hải-vật. Học-giả Lê-quư-Đôn (1726-1784) từng tham-khảo sổ biên của Cai-đội Thuyên-đức-Hầu (một chức-quyền Hải-Quân cao-cấp ngày trước) thấy năm 1702 đội Hoàng-Sa lấy được 30 thỏi bạc, năm 1704 được 5,100 cân thiếc, năm 1705 được 126 thỏi bạc... V́ không có tài-liệu ghi tai-nạn đắm tàu, ta thấy rằng việc nghiên-cứu đường biển trong thời các Chúa Nguyễn đă khá đầy đủ.

Năm 1815, vua Gia-Long sai Đội-trưởng Hoàng-Sa là Phạm-quang-Ảnh thám-sát và báo-cáo đường biển Hoàng-Sa. Năm sau đó, nhà vua chính-thức sai đặt bia và tuyên-bố xác-nhận chủ-quyền.

Năm 1834, vua Minh-Mạng sai Đội-trưởng Trương-phúc-Sĩ đo đạc và vẽ bản-đồ Hoàng-Sa.

Năm 1836, vua Minh-Mạng lại sai Thủy-quân Xuất-đội Phạm-Hữu-Nhật nghiên-cứu thêm chi-tiết địa-h́nh, hải-đạo Hoàng-Sa.

 

15.3 – THỜI PHÁP-THUỘC.

Năm 1899, toàn-quyền Đông-Dương Paul Doumer cho nghiên-cứu về hàng-hải Biển Đông, đề-nghị xây cất hải-đăng trên Hoàng-Sa.

Sau đó, nhiều cuộc nghiên-cứu về hải-đạo, địa-chất, sinh-vật-học đươc thực-hiện. Thời-gian này, kiến-thức về các hải-đảo Biển Đông gia-tăng rất nhiều và những giả-thuyết về sự thành-lập các đảo san-hô đă đem công-bố. Hải-đồ với đầy đủ chi-tiết nông sâu giúp cho việc hải-hành ngoài Biển Đông thêm an-toàn. Tai-nạn đắm tàu giảm hẳn xuống.

Một hải-học-viện được xây cất tại Nha-Trang.

Chúng tôi xin kể những hoạt-động khảo-sát chính trong thời Pháp-thuộc như sau:

Năm 1925, một cuộc nghiên-cứu đại-quy-mô về địa-chất Hoàng-Sa đă tiến-hành dưới sự chỉ-huy của Tiến-sĩ A. Krempf, giám-đốc ngành Hải- Dương-Học Đông-Dương. Tàu Lanessan được dùng trong công-tác này. Krempf cùng các kỹ-sư thủy-đạo, hầm mỏ và thủy-lâm của đoàn thấy rằng Hoàng-Sa là một hành-lang nối dài của dẫy núi Trường-Sơn chạy ra biển. Ông kết-luận: "Về phương-diện địa-chất, Hoàng-Sa đúng là một phần của Việt-Nam" (Géologiquement, donc, les Paracels font partie du Việt-Nam.)

 

H́nh 131 - Bản-đồ Hoàng-Sa do người Pháp vẽ vào thập-niên 1920, sau những khảo-sát điạ-h́nh đáy biển. (BSEI Dec. 1934.)

 

Ông Krempf cũng là tác-giả của một giả-thuyết mới về sự tạo-lập các đảo san-hô mà h́nh-dáng chịu ảnh-hưởng của gió mùa. Krempf cho rằng khi san-hô nổi lên th́ bị sóng và gió xâm-thực, những vật-liệu bị gió mùa xâm-thực sẽ bị cuốn rơi vào bên trong đè lớp san-hô bên trong và giết chết đi. Tới mùa gió mùa nghịch lại th́ vùng bên kia lại bị xâm-thực và vật-liệu cũng rơi vào bên trong... Ṿng đai san-hô v́ thế thường có h́nh bầu dục kéo dài theo chiều ảnh-hưởng của gió mùa.

Năm 1927, tàu Lanessan lại thực-hiện công-tác nghiên-cứu địa-chất tại quần-đảo Trường-Sa, thăm-ḍ trữ-lượng phốt-phát.

Năm 1928, công-ty tư-nhân Société nouvelle des Phosphates du Tonkin, sau khi nghiên-cứu phân chim Hoàng-Sa, đă xin phép Chính-phủ Bảo-hộ cho khai-thác.

Năm 1934, P. Chevey thuộc viện Hải-học Đông-Dương viết tường-tŕnh về những lư-thuyết h́nh-thành các đảo san-hô do hội Nghiên-cứu Đông-Dương tổ-chức. Nội-dung được đăng lại trong bài "Iles et Récif de Coraux de la Mer de Chine" báo Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises, bộ IX, số 4, Saigon ngày 10-12-1934, trang 48-56.

Thời thập-niên 1940 là giai-đoạn nhiều người Pháp tham-gia những cuộc nghiên-cứu kỹ-thuật về tàu thuyền trên Biển Đông. Họ đặc-biệt lưu-tâm nhiều đến các loại thuyền của Việt-Nam. Hai cuốn sách quan-trọng nhất đă ra đời là :

-"Esquisse d'une Ethnographie Navale des Peuples Annamites" của Pierre Paris, đăng trên tạp-chí Le Bulletin des Amis du Vieux Hué No. 14, Octobre- Decembre 1942; in lần hai tại Rotterdam, Holland năm 1955.

-"Voiliers d'Indochine" của J. B. Piétri, nhà sách S.I.L.I. Saigon xuất-bản (Nouvelle édition) 1949.

Hai tài-liệu này cùng một số bài khảo-cứu khác về hàng-hải đáng được kể là gia-tài văn-hóa quư-báu, không những cho riêng Việt-Nam mà c̣n cho chung toàn-thể nhân-loại. Chúng tôi xin kể một số nhỏ trong những phát-kiến độc-đáo về khả-năng hành-thủy của dân Việt như sau:

-Không những dân miền xuôi sống gần Biển Đông mà cả dân miền núi như dân Rhadés cũng đă là dân hàng-hải từng vùng vẫy trên biển.

-Tàu bè Việt-Nam rất đa-dạng và đa-năng. Những loại độc-đáo như ghe bè, ghe bầu được mô tả kỹ càng. Vận-tốc tàu thuyềnViệt-Nam rất cao, vượt trội các loại tàu thuyền khác trên thế-giới. Thuyền buồm Trà-Cổ trong nhiều lần thử-nghiệm chạy vượt quá 14 gút. (so sánh với vận-tốc các tàu cận-duyên ngày nay chạy đường Sài g̣n-Đà nẵng-Hải pḥng thường là 8 gút.)

-Ảnh-hưởng kỹ-thuật kiến-trúc ghe thuyền Việt-Nam lan tràn ra tận Ấn-độ-Dương và Thái-b́nh-Dương. Sự liên-hệ hàng-hải giữa Việt-Nam và các dân-tộc khác đi xa tới tận Nam-Mỹ và Mă-đảo.

 

15.4 – THỜI VIỆT-NAM CỘNG-H̉A.

Sau khi thâu-hồi độc-lập, Việt-Nam tiếp-tục những công-cuộc khảo-sát các đảo Biển Đông. Hải-Học-Viện Nha-Trang, viện Đại-học Sài-G̣n cũng như các cơ-quan chính-phủ khác đă nỗ-lực trong những công-tác này. Hải-quân VNCH thường cung cấp phương-tiện di-chuyển phái-đoàn ra những đảo ngoài khơi. Một số bản tường-tŕnh đáng lưu-ư như của ông Lê-văn-Hội năm 1957 về thực-vật, của bà Lê-thị-Ngọc-Thanh năm 1957 về phân bón, của ông Trịnh-tuấn-Anh năm 1973 về cuộc thám-sát Nam-Yết, của ông Trần-Hữu-Châu về công-cuộc nghiên-cứu phốt phát tại quần-đảo Hoàng-Sa cũng năm 1973.

Những người ngoại-quốc đến trợ giúp Việt-Nam trong các ngành khoa-học cũng góp công nghiên-cứu Hoàng-Sa, Trường-Sa và Biển Đông như các ông Edmond Saurin, Raoul Serene, Henry Fontaine ...

Dưới chính-thể Việt-Nam Cộng-Hoà, công-tác nghiên-cứu khoa-học Naga phải được kể là quy-mô nhất. Trong hơn hai năm dài từ 1959 đến 1961, các khoa-học-gia của Việt-Nam đă hợp-tác chặt chẽ với các chuyên-gia Hoa-Kỳ và Thái-Lan. Những chuyến khảo-sát trên biển của chương-tŕnh Naga diễn ra suốt dọc hành-lang thềm lục địa phía Nam Vĩ-tuyến 17 qua khắp vịnh Thái-Lan. Nhờ kỹ-thuật cao, phương-tiện tốt của Hoa-Kỳ, chương-tŕnh Naga diễn-tiến tốt đẹp. Thêm nhiều kiến-thức về địa-chất, hải-dương của Biển Đông trong khu-vực VNCH và Thái-Lan đă được cập-nhật-hóa.

 

15.5 – TRUNG-CỘNG LỢI-DỤNG KHẢO-CỨU ĐỂ XÂM-LƯỢC.

Trung-Cộng đă một lần lợi-dụng khảo-cứu để tấn-công quân Việt-Nam, đánh ch́m chiến-hạm và cưỡng-chiếm một số đảo của ta.

Theo tin hăng thông-tấn UPI từ Vọng-Các đánh đi th́ ngày 14-3-1988 đă có một cuộc đụng độ giữa hải-quân CSVN và Trung-Cộng tại vùng quần-đảo Trường-Sa. Trung-Cộng tố-cáo là các tàu Trung-Cộng đang bỏ neo để yểm-trợ cho một nhóm nghiên-cứu thăm-ḍ mỏ dầu ở đây th́ bị chiến-hạm CSVN tấn-công, v́ thế hải-quân Trung-Cộng bắt buộc phải tự-vệ.

 

H́nh 132- Một trong những chiến-hạm Trung-Cộng (số 502, 506, 531) tham-dự hải-chiến Trường-Sa 1988.

 

Khi hạm-đội của họ tiến xuống xâm-lăng Trường-Sa, Trung-Cộng mập mờ lấy danh-nghĩa đưa phái-đoàn khoa-học Liên-hiệp-quốc đi khảo-sát. Sau này Trung-Cộng c̣n làm kiểu "mèo khóc chuột", tuyên-bố rất tiếc là biến-cố đă xảy ra. Liên-hiệp-quốc cũng lên tiếng thanh-minh không có công-tác khảo-sát nào ở Trường-Sa. (South China Sea Treacherous Shoals, tạp-chí Far Eastern Economic Review, 13 Aug 92: 14-17.)

Ấy thế mà rồi ra, lương-tâm nhân-loại cũng ... chết, mọi quốc-gia trở lại im lặng như không có ǵ xảy ra.

 

15.6 – CHUYỆN KHẢO-CỨU TỨC-CƯỜI!

Trước khi qua phần kết-luận chúng tôi mời quư-vị độc-giả nghe vài mẩu "chuyện cười" lư-thú về việc khảo-sát địa-lư hải-đảo kiểu Tàu .

Ngoài chuyện trơ trẽn mang mặt nạ "khảo-sát để xâm lăng" Trường-Sa mới đây như vậy, người Trung-Hoa cũng thường rêu rao đă làm nhiều cuộc khảo sát Hoàng-Sa trong quá-khứ. Chuyến đi của Đề-đốc Lư-Chuẩn vào năm 1909 mà cho đến nay, vẫn c̣n được họ mang ra tuyên-truyền.

Có lẽ người Trung-Hoa thích làm những chuyện nực cười lố bịch hay sao đó mà người ở ngoài như chúng ta không bao giờ hiểu nổi. Vào năm 1974, khi Hải-quân Việt-Nam Cộng-Ḥa tác-chiến ở Hoàng-Sa, Trung-Cộng đă phát-hành một tập thơ anh-hùng-ca, tŕnh-bày rất hào nhoáng, mầu mè kể rằng lúc khởi đầu những dân đánh cá Trung-Cộng chỉ có chửi bới, dọa dẫm ít câu là lực-lượng VNCH thấy sợ mà chạy.

Thi-phẩm c̣n ngâm nga tiếp rằng dân-binh của họ giữa khi tác chiến đă dùng tiểu-đĩnh và ghe cá tiến sát vào Khu-trục-hạm, Tuần-dương-hạm, Hộ-tống-hạm của ta, tung lựu-đạn sang, dùng súng tay tiêu-diệt và loại Hải-quân ta khỏi ṿng chiến vĩnh-viễn. (Battle of the Hsisha Archipelago -Reportage in Verse, Chang Yung-Mei, Peking PRC, 1974.)

Về công-tŕnh khảo-sát của Trung-Hoa, chúng tôi xin nhường lời lại cho một người Pháp, ông Jourdan Chauvaire. Hồi đầu thế-kỷ này hải-quân Pháp làm chủ Biển Đông, nhất cử nhất động của Trung-Hoa ngoài biển đều bị theo dơi nên tường-tŕnh của họ cũng đáng để ta xem qua và nhận-xét.

Sau chuyến công-tác vùng Biển Đông trở về, hạm-trưởng Chauvaire viết một bài đăng trong báo La Nature số 2916, xuất-bản tại Paris ngày 01-1-1933, trang 385-387 mà một đoạn đại-ư như sau:

"Nhắc lại chuyện hai chiếc pháo-đĩnh nhỏ bé của tỉnh Quảng-Đông mang hiệu-kỳ Đề-Đốc Lư-Chuẩn đến Hoàng-Sa trong năm 1909, ghé lại quần-đảo một khoảng thời-gian không quá 24 giờ. Vậy mà đến ngày 20-6-1909, đại-nhật-báo Quảng-Đông, tờ Kouo Che Pao cho đăng tin lớn...

Tôi nghĩ (lời Hạm-trưởng Chauvaire) thật là khôi-hài. Ông "Đề-Đốc nhà ta" và đám thủ-hạ ít oi của ông không những đă khảo-sát kỹ-lưỡng hết thảy các ḥn đảo, đụn, cồn, bờ cạn băi ch́m của vùng biển Hoàng-Sa mà c̣n trong giây lát vẽ ra được một bản-đồ tổng-quát toàn-thể quần-đảo cùng 15 chiếc bản-đồ đầy đủ chi-tiết chuyên-môn nữa... Trong vài giờ thôi nhé! Sau hết, Đề-đốc đă gom đủ yếu-tố để xem xét sâu xa và kết-luận là Trung-Hoa có thể xây-dựng được đến hai hải-cảng trong vùng!"

Nội-dung câu chuyện Ông Tây nói về Ông Tàu thám-sát nhiều ít là như vậy. Bẵng đi 41 năm sau, các báo Tàu do đảng Cộng-Sản kiểm-soát kể lại chuyện này khác hẳn đi. Báo Ming pao (Minh-Báo Nguyệt-san) số 101, tháng 5/ 1974, đăng nơi trang 19 như sau: Phó-tướng-quân (Vice-General) Wu Ching-yung và Đề-đốc Li Chun (Lư-Chuẩn) với ba chiến-hạm Fu po, Ch'en hang và Kuang chin đến thám-sát Hoàng-Sa vào tháng 4/ 1902. Chuyến thứ hai, cũng Phó-tướng-quân Wu và Đề-đốc Lư lại đến Hoàng-Sa công-tác ba tuần-lễ trong năm 1908. C̣n tờ Hsing-chou chou-k'an, xuất-bản ở Hàng-Châu ngày 10 tháng 2 năm 1974 cho rằng chuyến thám-sát thực-hiện vào năm 1913. (Disputed Islands in the South China Sea, Dieter Heinzig, Wiesbaden, 1976, trang 22, 26-27.

 

H́nh 133 - Dân-quân Trung-Cộng đánh ch́m chiến-hạm

VNCH bằng lựu-đạn và súng tay. (B́a sách Battle of the Hsisha Archipelago.)

 

V́ có nhiều điểm nghi-ngờ trong lối viết lách của người Trung-Hoa, chúng ta khó mà biết rơ hư thực. Chả trách ǵ 65 năm sau lần thám-sát đó (từ 1909 đến 1974), nước Tàu vẫn tiếp-tục tiến lên và chuyện thần-thoại xem ra c̣n khủng-khiếp hơn lại được "thi-văn hóa" như "lời chửi tiếng Tàu" đẩy lui hải-đội và những "cánh tay -hồng- quăng lựu-đạn" của dân-quân đánh cá tiêu-diệt chiến-hạm Việt-Nam. Dù trong việc khảo-sát địa-lư cũng như trong phương-cách tác-chiến, mấy ông Con Trời đều siêu-đẳng cả chăng ?!

Các chuyện trên nghe hơi chán và rồi thời-gian cũng qua đi. Cho đến mới đây khi Trung-Cộng chuẩn-bị lấn chiếm đá ngầm Vành Khăn, người ta lại có dịp được nghe nhiều tiếng cười khúc khích của dân-chúng Phi-luật-Tân từ bên kia Biển Đông vọng về:

Ngoại-trưởng Roberto Romulo của Phi đă phản-ứng là không mấy tin-tưởng về một bài của tờ Quang-Minh Nhật-báo ra ngày 5 tháng 12 năm 1994. Bản tin loan rằng sau 10 năm dài khảo-cứu, 400 học-giả và chuyên-viên nổi tiếng Trung-Quốc đă chứng-minh rằng Bắc-Kinh hiển-nhiên đă từ xưa nắm chủ-quyền trên toàn thể vùng quần-đảo Trường-Sa. (Báo Philippines Daily Inquirer, Sunday, Dec. 11, 1994.) Theo lư lẽ đó, người Tàu cho rằng chẳng c̣n ǵ phải tranh căi trên bàn thương-thảo.

Người Trung-Hoa Cộng-Sản ngày nay c̣n vượt hơn cả các thế-hệ trước đây. Lần này họ tạo được "kỳ-tích chuyển-biến từ không qua có" cả trong việc nghiên-cứu tưởng như là đầy tính-cách khoa-học nữa!

 

 

    

Free Web Hosting